“5 tội lớn của ngành Đường sắt & 5 lời nhắn ông bộ trưởng Nguyễn Văn Thể” plus 11 more |
- 5 tội lớn của ngành Đường sắt & 5 lời nhắn ông bộ trưởng Nguyễn Văn Thể
- KHI NHÂN DÂN LÀM... CHUỘT BẠCH
- Nỗi sợ hãi của chế độ từ bản chất là nhân tố tạo nên sự sợ hãi chống lại xã hội!
- Trần Thị Nga bị đánh đập và đe dọa giết chết trong trại giam Gia Trung
- Hai thách thức lớn đối với ông TBT Nguyễn Phú Trọng
- Doanh nghiệp Mỹ thất vọng vì TQ hứa nhưng 'không tiến bộ'
- Anh Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực
- Chính quyền ngày càng dã man và hung bạo
- VN: Có 'bàn tay đạo diễn' biểu tình chống luật đặc khu?
- Tập Cận Bình không dám đánh bom nợ
- Tôi tham gia biên dịch “Thơ Văn Lý Trần”
- Mỹ gây Chiến tranh thương mại vì bị Trung Quốc kích động!?
5 tội lớn của ngành Đường sắt & 5 lời nhắn ông bộ trưởng Nguyễn Văn Thể Posted: 19 Aug 2018 05:21 PM PDT Nguyen Ngoc Chu
Đọc tin báo Vnexpress ngày 18/8/2018 về đường sắt cao tốc Bắc Nam rằng: Và rằng: "Trước đó Bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thế đã yêu cầu tư vấn so sánh, làm rõ sự khác nhau của hai loại công nghệ về các vấn đề liên quan như suất đầu tư, giá thành, khai thác, vận hành. Những so sánh, đánh giá về công nghệ phải trung thực, nêu bật được ưu, nhược điểm và căn cứ đề xuất áp dụng ở Việt Nam". Vì đã thất kinh về vụ THU GIÁ, nên vội vàng gửi đến bộ trưởng Nguyễn Văn Thể 5 lời nhắn sau đây. I. NĂM TỘI LỚN CỦA NGÀNH ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM 1. Đường sắt Việt Nam từ hơn 40 năm nay, kể từ năm 1975, về cơ bản là không thay đổi. Đó là tội lớn thứ nhất.
2. Việt Nam có lãnh thổ trải dài Bắc - Nam. Nên đường sắt Việt Nam phải phát triển theo sơ đồ xương cá. Chỉ một trục xương sống duy nhất Bắc - Nam được xây dựng trước thì sẽ giải quyết cơ bản vấn đề vận tải cả nước. Còn các đường xương cá sẽ được phát triển phù hợp sau đó theo thời gian. Rất khác với các nước như Pháp hay Đức, với lãnh thổ có chiều Đông - Tây, Nam - Bắc gần tương đương nhau, hệ thống đường sắt phải nối vòng cùng các đường xuyên tâm, dài và phức tạp. Thế nhưng ngành đường sắt Việt Nam trong nhiều năm đã không nhận thấy đặc thù này để đầu tư phát triển dứt điểm cơ bản hệ thống đường sắt Việt Nam. Đó là tội lớn thứ hai. 3. Xây dựng tuyến đường sắt Bắc - Nam với tốc độ 200 km/h, như hệ thống đường sắt châu Âu, thì đi từ Hà Nội tới TP HCM không quá 10 h. Giải quyết cơ bản vấn đề vận chuyển hành khách và hàng hóa Bắc - Nam. Cắt giảm thời gian và chi phí. Tạo thuận lợi cho cho nhân dân cả nước đi lại. Là đòn bẩy mạnh mẽ để kinh tế phát triển. Thế nhưng ngành đường sắt đã không nhìn thấy điểm chiến lược cực kỳ quan trọng này để quyết tâm cố công phát triển ngàng đường sắt. Đó là tội lớn thứ ba. 4. Việt Nam là nước nghèo, chậm phát triển. Nhưng ngành đường sắt lại trình dự án đường sắt cao tốc đắt tiền của các nước tiên tiến giàu có. Tốn kém mà không giải quyết được vấn đề vận chuyển đa số nhân dân, lại không vận chuyển được hàng hóa. Mục tiêu viển vông. Mục đích ngầm là hưởng lợi bất chính. Vì lợi ích riêng mà không màng đến tốn kém vô ích của quốc gia. Đó là tội lớn thứ tư. 5. Đã không thay đổi, nhưng liên tục trong suốt mấy chục năm qua tiêu hàng núi tiền mà chỉ để nâng cấp vụn vặt. Không biết hướng trọng tâm vào các nước có ngành đường sắt phát triển ở châu Âu, mà lại bám vào thiết bị lạc hậu của Trung Quốc, lại còn cả đồ thải ra. Đó là tội lớn thứ 5 của ngành đường sắt. 5 tội lớn của ngành đường sắt cũng là 5 tội lớn của lãnh đạo Bộ GTVT trong nhiều nhiệm kỳ. Ngồi ở vị trí quản lý ngành, tiêu tốn không biết bao nhiêu trăm ngàn tỷ, mà để lạc hậu, không phát triển ngành vận tải chiến lược quan trọng bậc nhất của nước nhà.
II. MUỐN NGHE ĐƯỢC TƯ VẤN THÌ PHẢI GIỎI HƠN TƯ VẤN Việc nghe tư vấn là chuyện đương nhiên và cần thiết. Nhưng giữa các ý kiến khác nhau thì làm sao biết đúng sai? Bởi thế, muốn nghe được tư vấn để nhận quyết định đúng thì phải giỏi hơn tư vấn. III. PHẢI CHỈ CHO CẤP DƯỚI CHỨ KHÔNG DỰA VÀO ĐỀ XUẤT CỦA CẤP DƯỚI Lãnh đạo phải biết dựa vào cấp dưới. Nhưng lãnh đạo Việt Nam trong vài chục năm trở lại đây phần lớn chỉ biết dựa vào cấp dưới. Đó là tai họa. Không phải thủ tướng chỉ dựa vào đề nghị của bộ trưởng rồi xem xét quyết định mà thủ tướng phải chỉ bộ trưởng phải làm cái gì, làm như thế nào! Không phải Bộ trưởng Bộ GTVT dựa vào ngành đường sắt rồi phê duyệt phương án của ngành đề ra, mà bộ trưởng phải chỉ cho ngành đường sắt phải phát triển như thế nào. Hãy nhìn vào lãnh đạo các nước phương Tây thì thấy sự khác biệt giữa lãnh đạo ta và họ. IV. HÃY TỰ MÌNH ĐÍCH THÂN CHỈ HUY Tuyến đường sắt Bắc - Nam giữ vai trò động lực cực kỳ quan trọng cho phát triển kinh tế nước nhà. Lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD. Chọn công nghệ sai, mua thiết bị không đúng là thiệt hại cả hàng tỷ USD và sẽ làm nền kinh tế thêm chậm phất triển. Cho nên bộ trưởng Nguyễn Văn Thể phải đích thân cầm quân xây dựng tuyến đường sắt quốc gia Bắc - Nam. Ông phải dồn trí tuệ, tâm lực, thời gian cho tuyến đường sắt với tư cách một tổng công trình sư đích thực.
V. KHÔNG LÀM ĐƯỢC THÌ TỪ CHỨC Làm bộ trưởng chỉ huy xây dựng đường sắt thì phải biết giá từ chiếc bulon cho đến giá một đoàn tàu. Phải biết giá thành của 1 mét đường sắt ở Đức, ở Pháp, ở Thụy sĩ khác nhau như thế nào. Phải biết mua thiết bị này ở Đức, Thụy sĩ hay ở Nhật hay ở nước nào là tốt hơn.
Làm bộ trưởng quản lý ngành đường sắt thì phải biết hệ thống đường sắt ở các nước tiên tiến khác nhau ra sao. Phải tự mình nghiên cứu tìm hiểu chứ không chỉ dựa vào tư vấn. Phải biết chỉ ra cái sai của tư vấn, chứ không phải chỉ nêu cho tư vấn làm rõ. Không phải dựa vào cấp dưới, mà phải chỉ cho cấp dưới làm như thế nào, mua cái gì ở đâu, giá bao nhiêu. Làm bộ trưởng xây dựng tuyến đường sắt Bắc - Nam trị giá nhiều tỷ USD thì phải đích thân đàm phán giá cả. Làm bộ trưởng là phải để cho tư vấn và cấp dưới sợ hãi về chuyên môn của bộ trưởng, kinh hồn về hiểu biết giá cả của bộ trưởng, kính nể tầm nhìn và trình độ quản lý của bộ trưởng. Nếu không làm được như vậy thì từ chức. Trong nhân dân có nhiều người làm được bộ trưởng với tư cách tổng công trình sư đích thực như nêu trên. N.N.C. Nguồn: https://www.facebook.com/chu.nguyenngoc/posts/1416803651786394?__tn__=K-R | |||||
KHI NHÂN DÂN LÀM... CHUỘT BẠCH Posted: 19 Aug 2018 05:18 PM PDT
Xỉ nhiệt điện đã được chính thức đem san lấp làm đường nông thôn mới tại Hà Tĩnh - quê hương của ông Trần Hồng Hà - Bộ trưởng Bộ Tài nguyên & Môi trường. Tôi coi đây là hành vi đem nhân dân ra làm... chuột bạch để thí nghiệm việc xử lý chất thải nguy hại một cách trái pháp luật.
Tro xỉ nhiệt điện, nhà máy thép được quy định rõ là chất thải nguy hại theo Quy chuẩn Việt Nam số 02 năm 2012 và thông tư 36 năm 2015 của chính Bộ Tài nguyên & Môi trường. Nghiên cứu của Đại học Stuttgart, được Tổ chức Hòa bình xanh (Greenpeace) đặt hàng cho thấy: "Khoảng 200.000 trẻ em sinh ra mỗi năm EU bị phơi nhiễm các mức hàm lượng thủy ngân có thể gây ảnh hưởng đến quá trình phát triển tâm thần và hệ thần kinh của chúng. Một nhà máy nhiệt điện than với công suất 500 MW sẽ sản sinh ra 170 pound (gần 85 kg) thủy ngân mỗi năm. Chỉ cần một thìa cà phê thủy ngân đổ xuống một hồ rộng 10 ha cũng đủ khiến cá trong hồ này trở nên không an toàn cho tiêu thụ. Chì và cadmium cũng là các kim loại độc hại có thể tích lũy trong các mô của động vật và con người, dẫn đến chậm phát triển trí tuệ, gây rối loạn phát triển và gây tổn hại hệ thần kinh, có thể dẫn đến bệnh tự kỷ. Một nhà máy nhiệt điện than với công suất 500 MW cũng sẽ sản sinh ra 225 pound (hơn 100 kg) thạch tín [asen] mỗi năm. Những người uống nước có 50 phần tỉ là thạch tín có nguy cơ phát triển bệnh ung thư cao hơn. Than cũng chứa một lượng nhỏ các chất phóng xạ như uranium và thorium trong tro bay. Các nhà nghiên cứu ước tính nồng độ chất phóng xạ tăng từ 0,03% lên mức 0,12% mỗi năm ở lớp đất bề mặt dày 30 cm ở khu vực đất nằm xung quanh bán kính 20km của một nhà máy nhiệt điện than".
Tôi đang nói đến Châu Âu với quy trình kiểm tra nghiêm ngặt và các quy chuẩn môi trường cao hơn Việt Nam. Quay trở lại với câu chuyện đem xỉ nhiệt điện đi san lấp nền đường, nền nhà thay cát ở Hà Tĩnh, đó thực sự là mối nguy hại lâu dài. Xỉ đáy lò hay tro bay lọc tĩnh điện từ ống khói lò đốt nhiệt điện (và cả nhà máy thép) hiện nay được kiểm định kiểu lấy 1 lần mẫu, đạt chuẩn không ô nhiễm kiểu Việt Nam thì cấp giấy phép 3 năm. Hiểu đơn giản, kiểm định một miếng thịt lợn của con lợn bạn ăn hôm nay và áp quy chuẩn này cho toàn bộ số lợn của một cơ sở giết mổ trong 3 năm. Sự phi lý này nằm ở chỗ tất cả những lần vận hành của nhà máy nhiệt điện (và cả nhà máy thép) thì không ngày nào giống ngày nào, nguồn than nhập cũng không phải mẻ nào giống mẻ nào. Có cách giải quyết vấn đề này không? Có! Beton hóa rắn xỉ than làm gạch không nung, lấy tro bay làm phụ gia xi măng. Nghĩa là đã chuyển hình thái và tăng độ liên kết của vật chất. Nhưng tất cả doanh nghiệp gạch không nung tại Việt Nam đều gặp khó ở chỗ quy định về vận chuyển chất thải nguy hại cũng của chính Bộ Tài nguyên và Môi trường. Muốn vận chuyển phải có "gốc"! Và Chính phủ minh bạch, Đảng chống tham nhũng muốn biết "gốc" của vấn đề xin cứ vào xã Vĩnh Tân (huyện Tuy Phong, tỉnh Bình Thuận) hỏi dân. Dân sẽ chỉ xe nào của cán bộ nào của tỉnh, xe nào của "trung ương gửi" và thậm chí nói đích danh tên cán bộ lẫn phẩm hàm đương chức. Dĩ nhiên, có cả những "doanh nghiệp xí phần" (xem ở comment). Xin nhắc lại một bài viết cũ của tôi: "Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang Nguyễn Văn Linh đã ký quyết định số 1954 về việc xử phạt vi phạm hành chính 400 triệu đồng về bảo vệ môi trường đối với Công ty nhiệt điện Sơn Động - TKV vào ngày 20/11/2017. Trước đó, Ngày 4/7/2017, UBND tỉnh Bình Thuận có văn bản không đồng ý cho Công ty CP đầu tư Mãi Xanh lấy xỉ than nhiệt điện Vĩnh Tân san lấp làm mặt bằng để xây dựng nhà máy làm gạch. Năm 2010, Phòng Cảnh sát Môi trường tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu tiến hành điều tra công ty thép Pomina vì chôn tro, xỉ san lấp mặt bằng. Đến năm 2013, cũng chính công ty Pomina và thêm 1 công ty khác bị phạt 600 triệu đồng vì vấn nạn ô nhiễm và trong đó vẫn không thể không nhắc đến tro, xỉ đốt lò." Đó là những cán bộ còn biết tuân thủ luật, biết nghĩ cho dân. Còn cách mà Bộ Tài nguyên và Môi trường của ông Trần Hồng Hà dùng xỉ than đem san lấp nền thì 10 năm nữa mới thấy hậu quả. Ung thư, ô nhiễm đất và nước xuất hiện luôn cần một quãng thời gian phơi nhiễm, tích tụ. Và ở xứ "Hà Tĩnh mình thương" lại có một Bộ trưởng vi phạm pháp luật khi đem ô nhiễm về chính quê hương. Ông Trần Hồng Hà ạ! Dân, không phải là loài chuột bạch để ông và các cán bộ đương quyền liên quan việc này, đem ra thử nghiệm! Với tôi, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường hiện tại chỉ là một chính khách khéo nói, không hơn. Và những phát ngôn "yên tâm, yên tâm, yên tâm" của ông Trần Hồng Hà chưa bao giờ là cơ sở để môi trường, dân sinh an toàn. Nếu không muốn nói là ngược lại! (Bài sau tôi sẽ viết về các thứ trưởng của một số Bộ vừa phát ngôn, vừa hành động trái luật liên quan đến tro xỉ nhiệt điện.) Chú thích: Ảnh internet M.Q.A. Nguồn: https://www.facebook.com/quocan.mai/posts/10211805921896014 | |||||
Nỗi sợ hãi của chế độ từ bản chất là nhân tố tạo nên sự sợ hãi chống lại xã hội! Posted: 19 Aug 2018 05:15 PM PDT Nguyễn Hoàng Quang Hiến pháp là cái gốc của Luật pháp. Xã hội rất cần có luật pháp và luật pháp ấy không trái với Hiến pháp, phải tuân theo những quy định của Hiến pháp. Có xã hội, có nhà nước là có luật pháp! Nhưng Hiến Pháp và Luật pháp như thế nào? Trong chế độ xã hội phong kiến trước đây, Vua với quyền "thiên tử" nhưng những ông "con trời" ấy cũng cần có luật pháp để quản lý, cai trị xã hội. Nhân dân – là "Trời" – dù biết rằng luật pháp ấy là của kẻ cai trị chẳng phải của nhân dân nhưng nhân dân cũng thấy cần thiết phải có luật pháp, sống theo luật pháp, hoạt động trong luật pháp, dẫu là Vua thì "Quân pháp" vẫn "bất vị thân"! Có nhà nước là có Luật pháp nhưng luật pháp xã hội dân chủ và độc tài khác nhau về bản chất: Nhân dân là chủ thể xã hội hay kẻ độc tài (cá nhân, tập thể đảng trị) là chủ thể xã hội. Luật pháp trong xã hội dân chủ, dân là chủ thể của xã hội. Dân là chủ; xã hội là của nhân dân; mọi công dân trong xã hội - không phân biệt, bình đẳng trước pháp luật. Thiết chế xã hội dân chủ là "tứ quyền phân lập": Quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và quyền lực thứ tư là "quyền thông tin báo chí" - "tự do ngôn luận"- để toàn dân kiểm tra, giám sát toàn diện hoạt động của Nhà nước bằng quyền "tự do ngôn luận", tự do biểu ý của mỗi con người trong cuộc sống xã hội dân chủ-tự do! Luật pháp là ý chí của nhân dân, là công cụ của nhân dân quản lý xã hội, giám sát mọi hoạt động của nhà nước cùng với những thiết chế giám sát, kiểm tra, chống sự lạm quyền của nhà nước. Nhà nước là của dân, do dân, vì dân! Nhân dân bằng quyền dân chủ - "chánh ý - chính trị" - của chính mình xây dựng nhà nước, bảo vệ nhà nước, chống sự lạm dụng quyền lực nhà nước để bảo vệ mọi công dân bình đẳng trước pháp luật và trong toàn xã hội! Mọi quyền của công dân được Luật pháp bảo vệ, đó là những điều kiện cần thiết để đảm bảo quyền tự do của mỗi người, là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả mọi người; để mỗi công dân vì toàn thể xã hội và xã hội vì mỗi công dân; đảm bảo cho mỗi công dân được quyền sống, tự do, mưu cầu hạnh phúc! Trong thời đại hiện nay - "thời đại thế giới phẳng" - các giá trị nhân bản, nhân quyền, dân quyền được đề cao với mục tiêu Tất cả Vì Con Người, Tất cả Vì Cuộc Sống và Môi trường Sống của Con Người. Những quyền và những giá trị ấy chỉ có trong xã hội dân chủ! Con người ở trong cuộc đời nay chẳng có ai là toàn diện, toàn bích, bởi vậy cái thiết chế của nhà nước xã hội dân chủ cũng không thể toàn bích mà chỉ hoàn thiện dần qua quyền dân chủ, ý thức dân chủ của mỗi công dân trong xã hội. Do cái tham trong mỗi con người (tham quyền, tham danh, tham lợi…) nên sự biến hóa của "nén bạc đâm toạc tờ giấy" với nhiều hình thức … đó là cái lỗ mọt mà mỗi công dân trong xã hội ngày càng có nhiều biện pháp để trám, bít, diệt lỗ mọt ấy bằng công cụ luật pháp, thực thi luật pháp, sự nghiêm minh của luật pháp, không chừa một ai! Trong những xã hội dân chủ, ông "Vua" – Tổng thống, Thủ tướng… nếu vi phạm luật pháp đều phải ra trước vành móng ngựa là chuyện bình thường, nhưng trong chế độ độc tài thì điều ấy không bao giờ có! Trong xã hội Việt Nam hiện nay, tất cả mọi sự vô pháp, vô cương, vô luân, vô đạo ... đang diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Nhân dân đã không có quyền dân chủ, quyền sống là quyền tối thiểu, căn bản của con người để tồn tại trong xã hội cũng thật là mong manh thì làm gì có quyền tự do để có thể "mưu cầu hạnh phúc". Nhân dân không sợ Luật pháp, rất cần luật pháp nhưng chỉ sợ và rất sợ là Luật pháp không nghiêm khi bọn độc tài đã chiếm đoạt! Các chế độ độc tài giả danh dân chủ, cái gì họ cũng có thể đề ra trong Hiến pháp, luật pháp "theo tập quán quốc tế" (!), cũng như ký các cam kết trong các công ước quốc tế ; gọi luật pháp là "ý chí, nguyện vọng (!) của nhân dân; "quyền công dân là thiêng liêng, bất khả xâm phạm" (!) … nhưng trong thực tế thì ngược lại. "Ý chí" là của đảng Cộng sản; "nguyện vọng" là của nhân dân mà sự ban phát cho cái "nguyện vọng" ấy là do "ý chí" của Đảng Cộng sản, và "quyền công dân là thiêng liêng" (!) là quyền của "nhân dân giai cấp" – là đội ngũ cán bộ – tài sản của đảng là "bất khả xâm phạm!"… Với "quan điểm nhà nước giai cấp", "nhân dân giai cấp" đề cao đấu tranh tiêu diệt lẫn nhau thì bản chất dã man, cái ác … tất nhiên trỗi dậy, như "nhân quyền XHCN" thì không có "nhân", chỉ là quyền bản năng như những loài vật nuôi để làm cảnh, xẻ thịt… Luật pháp và công cụ thực thi luật pháp chỉ bảo vệ kẻ độc tài, nhà nước độc tài và mọi lợi quyền "nhân dân giai cấp" của chúng. Nhân dân xã hội chỉ là kẻ nô lệ, những "công cụ sản xuất" để tạo ra những lợi ích, lợi nhuận cho chúng và chúng sẽ dùng mọi hình thức bạo lực, trấn áp, tiêu diệt bất cứ ai nếu đụng chạm đến sự tồn tại và lợi quyền của chúng, bất chấp mọi luật pháp dù Luật ấy chính họ đẻ ra. Tụ họp đông người, sự sống hướng thiện, hoặc "im lặng", "bất bạo động" của nhân dân cũng đều là nổi sợ hãi của chế độ! Họ sợ biểu tình yêu nước, khiếu kiện đông người, sợ nhân dân lên tiếng đòi chủ quyền của đất nước … Những công cụ bạo lực của nhà nước (công an các loại, kể cả bọn lưu manh, côn đồ, xã hội đen… – lực lượng "hậu bị" của họ) hiện nay cứ tưởng rằng mình đại diện cho nhà nước, là công cụ của nhà nước, của đảng; tưởng mình đang có trong tay quyền sinh, quyền sát, bất chấp mọi thủ đoạn đê mạt để trấn áp nhân dân. Họ tưởng rằng sẽ làm cho nhân dân sợ hãi để dễ cai trị, để không ai dàm chống đối mình nhưng chính nổi sợ hãi của chế độ từ bản chất mới là nhân tố tạo nên sự sợ hãi xã hội, chống lại xã hội! Cái thiết chế bạo lực họ tạo ra chính là từ nổi sợ hãi ấy! Và, chính "cái chợ chiều" của chế độ hiện nay khi đã nằm trong cái thòng lọng của bọn cướp nước đang đến"hồi cuối"! Cơ chế bộ máy mà họ đã tạo ra không có lối thoát cho bọn họ. Họ đã cấu kết ràng buộc lẫn nhau từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên, ngang dọc dọc ngang, không ai có thể vùng thoát ra được, ngoại trừ từ bỏ nó, phá bỏ nó, và phải giữ mình! Đến một lúc nào đó họ sẽ biết rất cần luật pháp dân chủ, nghiêm minh! Luật pháp dân chủ, nghiêm minh bảo vệ cho mỗi công dân trong xã hội và cũng chính là để bảo vệ họ! Họ hoặc chỉ là công cụ, kẻ thừa hành, "đám sai nha"…, hoặc họ là kẻ đứng đầu cả bộ máy quyền lực, được tuyên dương là "anh hùng" với đủ thứ danh hiệu, bằng cấp, là những cán bộ cấp cao, công an, quân đội, trung ương, địa phương… tắm trong lợi quyền nhưng nhũng loạn do họ tự tạo ra vì "tham - gian ác" nên họ như đang sống trong bầy sói, mạng sống cũng rất mong manh, hôm nay "có quyền" nhưng ngày mai họ sẽ chẵng có quyền hành gì cả, thậm chí cả mạng sống cũng khó giữ - lúc ấy họ sẽ sống với ai?! Họ là "công cụ" nhưng những thân nhân của họ cũng là những công dân xã hội, có dòng, có họ, không ai muốn thân nhân của mình trở thành kẻ ác, vô đạo, xã hội nguyền rủa… Và khi họ có thể trở thành "con tốt thí", quyền hành của họ có thể bị tước mất bất cứ lúc nào. Lúc đó họ còn gì? Cái còn và cái cần thiết của mọi xã hội, bảo vệ mọi công dân trong xã hội cũng chính là Luật pháp và sự nghiêm minh của luật pháp, mà luật pháp ấy phải là ý chí của nhân dân, xây dựng bằng quyền dân chủ thực sự của nhân dân trong một hệ thống dân chủ luật pháp nghiêm minh mà "biểu tình" - là quyền của mỗi công dân biểu thị ý chí quyền của mỗi con người trước những nỗi nguy nan của xã hội, đất nước. Hiện nay họ có cần luật pháp hay không, hay chính họ cũng đang hung hăng trong nỗi sợ hãi vì xã hội không có kỷ cương, luật pháp và nằm trong"ách" của kẻ thù? Nhân dân là chủ thể xã hội, đảng chính trị cũng chỉ là của một bộ phận nhân dân chứ không phải của toàn thể nhân dân! Còn đảng giai cấp, nhà nước giai cấp… thì chế độ độc tài đảng trị vẫn còn! Sự tham lam, thú tính và nổi sợ hãi của chế độ ngày càng hiện rõ, càng sợ hãi bao nhiêu thì sẽ hung hãn bấy nhiêu, và càng nhanh chóng đến đường hầm không lối thoát nhanh bấy nhiêu. Cái ác, đại ác đang ngự trị nhưng … sẽ còn được bao lâu? "Nhân" nào "Quả" ấy! "Quả" ấy tất yếu họ sẽ nhận được trong một ngày không xa … nhưng nguy cơ, đại họa mất nước cận kề, vì hiện nay chúng muốn "dọn sạch trong" để "bàn giao cho ngoài" một cách êm thắm, điều đó sẽ tạo nên nổi thống khổ loạn ly ly loạn trong cuộc sống xã hội con người Việt... Nhưng Nhân dân Việt Nam, mỗi con người Việt trong ngoài nước không bao giờ chấp nhận! N.H.Q. Tác giả gửi BVN | |||||
Trần Thị Nga bị đánh đập và đe dọa giết chết trong trại giam Gia Trung Posted: 19 Aug 2018 05:13 PM PDT Tuấn Khanh
Tin từ ông Lương Dân Lý cho biết, trong lần gọi điện thoại về nhà mới đây, bà Nga đã nói thật nhanh vào lúc cuối cuộc gọi để cho gia đình biết rằng biết trong thời gian qua, bà Nga liên tục bị đánh đập và bị dọa giết chết. Bên cạnh đó, rất nhiều thư từ của những người thương mến gởi vào trại thăm hỏi, thì bà Nga cũng không hề nhận được. Được biết mỗi tháng bà Nga được gọi điện thoại về nhà một lần. Mỗi lần chỉ có 5 phút và có quản giáo đứng bên cạnh kiểm soát. Trong lần thăm nuôi vào cuối tháng 7/2018, ông Lý được bà Nga cho biết bà bị giam chung với nữ phạm nhân hình sự côn đồ nổi tiếng của trại, có biệt danh là Hải Hô. Hầu hết những tù nhân nữ đã chịu án ở trại Gia Trung, Gia Lai như bà Bùi Thị Minh Hằng, bà Cấn Thị Thêu… đều biết về nhân vật này. Ông Lý cho biết rằng khi thấy gia đinh lo lắng, bà Nga đã trấn an, và nói rằng "chúng không dám đánh chết em đâu, nên anh cứ yên tâm và cũng đừng làm gì để mọi người phải lo lắng quá cho em". Trong cuộc trò chuyện nhanh với ông Lương Dân Lý vào ngày 18/8/2018, ông cho biết lý do bà Nga bị hành hạ như vậy, bởi bà tuyên bố không công nhận bản án và mức án của tòa án nhà nước Việt Nam áp đặt cho bà. Thậm chí khi gia đình đến thăm nuôi, công an trại giam buộc bà phải bận áo tù mới cho gặp gia đình, bà đã nhất quyết từ chối và chấp nhận mọi sự trừng phạt. Những người tù nhân lương tâm như bà Trần Thị Nga hay bà Cấn Thị Thêu, bà Bùi Thị Minh Hằng… luôn nhận được những tờ đánh giá – tức một cách theo dõi tư tưởng, đồng thời là một cách ghi nhận việc người có xin nhận tội để được khoan hồng hay không. Dĩ nhiên cách thức này luôn bị thất bại đối với những người phụ nữ có lý tưởng vì nhân quyền hay hoạt động tiến bộ xã hội. Việc thể hiện sự dứt khoát hay phản ứng trong các tờ khai đánh giá như vậy, cũng có thể khiến họ bị trừng phạt theo cách nào đó. Việc sắp đặt để tù hình sự ở cùng phòng rồi kiếm cớ đánh đập, sách nhiễu không phải là chuyện cá biệt của bà Trần Thị Nga. Trước đây, các tù nhân lương tâm khác, ở các trại giam khác nhau, như Cấn Thị Thêu, Bùi Thị Minh Hằng, Đỗ Thị Minh Hạnh, Phạm Thanh Nghiên… cũng đều trải qua tình trạng tồi tệ này. Cho thấy, cách hành xử này mang tính hệ thống chứ không phải là một hành động riêng biệt của riêng một trại. Bên cạnh đó, nhiều lần trại giam đã ngăn không cho các con của bà Nga vào thăm mẹ, mà không có lý do nào. Chỉ đến khi gia đình và bạn bè phản ứng liên tục với trại giam thì các con của bà mới được cho vào gặp. "Đó là những trò hành hạ, hay có thể gọi là trả thù rất bẩn thỉu mà cán bộ trại giam luôn nhắm vào chúng tôi (các tù nhân lương tâm) để gây khó khăn cho chúng tôi", bà Bùi Thị Minh Hằng, một người đã chịu án 3 năm tù giam ở trại Gia Trung, nhận định như vậy trong buổi nói chuyện ngày 18/8. Bà Hằng cũng nhấn mạnh rằng các giám thị phụ trách kiểm tra tình trạng trại giam phải chịu trách nhiệm về việc này vì đã để mặc cho việc tấn công tù nhân diễn ra. Bà Hằng cũng nêu tên một viên chức quản lý và kiểm tra ở trại Gia Trung có tên là Nguyễn Đình Ba, là người phải chịu trách nhiệm. Ông Lương Dân Lý cho biết ông sẽ làm đơn khiếu nại với trại giam Gia Trung, cũng như gửi đơn lên Tổng cục 8, tức Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ Tư pháp (cũ) để xin giải quyết trường hợp của bà Nga. Bà Cấn Thị Thêu, một người tranh đấu chống nạn cướp đất ở Hà Nội từng bị 20 tháng tù ở trại Gia Trung, Gia Lai, nói rằng theo kinh nghiệm của bà, việc bị khủng bố trong tù, cần nhất là lên tiếng cho gia đình được biết, cũng như phải tạo dư luận bên ngoài quan tâm về trường hợp của mình thì mới có hy vọng giảm thiểu được khó khăn. "Phải bằng mọi cách phải truyền tin ra ngoài. Về mặt luật pháp của Nhà nước thì mình vẫn làm đơn để khiếu nại. Nhưng quan trọng nhất là mượn lực của trong và ngoài nước để đòi nơi giam giữ tôn trọng các nguyên tắc chung. Lần tôi tuyệt thực để phán đối sai trái tại trại Thanh Hóa (2015), bà con ở làng cũng đã tụ tập trước cổng trại biểu tình phản đối việc đàn áp tôi khiến nơi này phải thay đổi thái độ. Còn trường hợp của chị Trần Thị Nga, tôi nghĩ, việc tác động truyền thông bên ngoài đến mọi tầng lớp người Việt, các quốc gia, các cơ quan ngoại giao… là điều hết sức cần thiết lúc này", bà Cấn Thị Thêu nhận định. Xin được nhắc lại, bà Trần Thị Nga là mẹ của hai đứa con nhỏ, sống tại Hà Nam. Bà bị tòa án của nơi này tuyên án 9 năm tù và 5 năm quản chế theo tội "Tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam" quy định tại khoản 1 điều 88 bộ luật Hình sự. Bà Trần Thị Nga (tên trên facebook là Thúy Nga) là một trong số các nhà hoạt động nữ nhiều lần bị đánh đập dã man, thậm chí bị vây đánh bằng gậy sắt đến gẫy chân tay. Ngày thường, bà và các con liên tục bị sách nhiễu bằng đủ hình thức và cấm cản các hoạt động. Năm 2017, bà từng được tổ chức Amnesty International vinh danh là một trong 6 phụ nữ can đảm của năm 2017. T.K. | |||||
Hai thách thức lớn đối với ông TBT Nguyễn Phú Trọng Posted: 19 Aug 2018 05:10 PM PDT Ánh Liên (VNTB) Có những thách thức lớn vẫn tìm đến ông TBT Nguyễn Phú Trọng, và hai trong số đó bao gồm cả tham nhũng lẫn vấn đề đặc khu. Về vấn đề đặc khu, mặt dù trên danh nghĩa là Bộ Chính trị quyết, tuy nhiên, với tư cách người đứng đầu, ông cũng cho thấy trách nhiệm và cái gật đầu quan trọng của mình đối với dự án này, lớn đến mức, bà Chủ tịch Quốc hội phải nhanh chóng hối thúc các vị ĐBQH mau chóng thông qua Luật đặc khu. Và khi cuộc biểu tình nổ ra, với sự đông đảo của nhân dân, ông đã nhanh chóng có nhận xét mang tính hà khắc đối với người biểu tình: đó toàn là thành phần bất hảo. Người dân lo ngại đặc khu bởi vấn đề Trung Quốc và an ninh - chủ quyền đối với lãnh thổ, trong bối cảnh bản thân hai ngành bảo vệ chính trị nội bộ và đối ngoại là công an và quân đội đang đối diện với chính những vấn đề tham nhũng bên trong. Thường thì, đảng và nhà nước Việt nam sẽ phủi tay về mối lo này, và thực tế, ông TBT Nguyễn Phú Trọng, cũng như các quan chức đầu đảng và nhà nước đã lên tiếng trấn an, trong đó: Mong cử tri hết sức tỉnh táo, bình tĩnh, tin tưởng sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ. Vì nước vì dân thôi chứ không có mục đích nào khác, không ai dại dột, ngây thơ giao đất cho nước ngoài để người ta vào đây. Tuy nhiên, sự 'ngây thơ' hay không cũng cần thời gian kiểm chứng, còn kiểm soát những rủi ro dù nhỏ nhất cũng cần phải thực hiện.
Mặc dù không đề cập đến một cách rộng rãi, nhưng sự ra đời của 3 đặc khu vẫn phải chịu ảnh hưởng từ Trung Quốc, trong đó có cả sự phủ bóng của sáng kiến 'Một vành đai - Một con đường'. Sự phủ bóng này đặc biệt hiện diện đậm nét tại khu vực Phú Quốc, nơi gần gũi với dự án kênh đào Kra (kênh đào Thái Lan) mà Trung Quốc nỗ lực vận động bằng tiền lẫn ảnh hưởng chính trị, gần nhất là cuộc hội thảo vào tháng 02.2018. Tiếp đó, Quảng Ninh - nơi đang đẩy mạnh cải cách hành chính - kinh tế cũng mong mỏi sự hiện diện của đặc khu, lãnh đạo tỉnh này cử nhiều đoàn qua thăm và học tập Trung Quốc, hối thúc Quốc hội sớm thông qua Luật đặc khu, một phần trong đó có nỗ lực của ông Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban tổ chức Trung ương lúc đó là Bí Thư tỉnh ủy Quảng Ninh, người đã chỉ đạo và cùng các cơ quan của tỉnh quyết liệt xây dựng Đề án thành lập Đặc khu kinh tế Vân Đồn [1]. Vậy nguy cơ ở đây là gì? Mới đây, Thời báo Tài chính (FINANCIAL TIMES) trong một bài viết ngắn gọn ngày 14.08.2018 đã dẫn nguồn tin từ FireEye, cáo buộc Trung Quốc bị cáo buộc sử dụng sáng kiến 'Một vành đai - một con đường' để gián điệp. Theo các chuyên gia tổ chức này, Bắc Kinh sử dụng dự án cơ sở hạ tầng khổng lồ để theo dõi các công ty và quốc gia cũng như giảm bớt bất đồng. 'Một trạm chuyển phát dữ liệu' nằm trong tổ hợp dự án thương mại điện tử, Viện Khổng Tử, mạng viễn thông, công ty vận tải, khách sạn, tổ chức thanh toán tài chính và công ty logistics sẽ gửi dữ liệu qua back-end đến một trung tâm phân tích tập trung ở Trung Quốc. Hãy tưởng tượng dự thảo Luật đặc khu không có chữ Trung Quốc nào, nhưng tâm thế dựa vào sáng kiến 'Một vành đai - một con đường' đã hiện diện, và bản thân những nhà đầu tư Trung Quốc khá thoáng tay trong việc chi tiền xây các dịch vụ - thương mại tại một nơi mà được 'ưu đãi và bình đẳng', sẽ không có sự phân biệt giữa công ty Trung Quốc hay Nhật Bản, chỉ có thương mại. Cái khác là Trung Quốc chi nhiều tiền và một 'trạm chuyển phát dữ liệu' trên sẽ mọc không chỉ ở Phú Quốc hay Vân Đồn, mà cả Bắc Vân phong. Sự bảo mật và sự sẵn sàng, tiềm lực cho cuộc chiến tranh điện tử của Việt nam hoàn toàn yếu kém. Việt nam chỉ có luật về an ninh mạng nhằm 'bảo vệ chế độ', trong đó nhắm đến các mục tiêu bất đồng chính kiến hơn là các chủ thể bên ngoài. Ngoài ra, nhiều quan điểm cho rằng, ba đặc khu kinh tế lần này là phòng thí nghiệm cho cải cách thể chế, tuy nhiên - liệu có đủ thời gian để nghiệm ra đường đi cho cải cách thể chế, hay tất cả sẽ trở thành thí nghiệm cho một tổ hợp mất an ninh - đầu cơ đất và đe doạ chủ quyền quôc gia? Vấn đề thứ hai là tham nhũng, vừa qua, TBT Nguyễn Phú Trọng tuyên bố 'tham nhũng đang được kiềm chế'. Chiến dịch đốt lò chạm đến các vị tướng tá trong quân đội trong công an, đó là điều đáng mừng. Nhưng để sử dụng cụm từ 'đang được kiềm chế' là còn quá sớm. Để cụm từ này được hiện diện, thì Yên Bái hay các trạm BOT, thậm chí là câu chuyện của ông Bí thư tỉnh uỷ Thanh Hoá tên Trịnh Văn Chiến - phải được đặt lên bàn chiến dịch. Nhưng không, hiện giờ những yếu tố này đã không còn hiện diện nhiều về mặt báo chí, và thậm chí như vụ Biệt phủ Yên Bái hoàn toàn chìm. Nó cho thấy, chiến dịch đốt lò vẫn chưa thực sự trọng tâm vào mục tiêu chống tham nhũng.
Đặc khu hiện nay nổi bật vấn đề chủ đạo: đầu cơ đất Tiếp đấy, 'kê khai tài sản' là khâu đầu tiên và quan trọng bậc nhất của kiềm chế và đẩy lùi tham nhũng, nhất là trong giải quyết bài toán liên quan đến BOT hay biệt phủ Yên Bái. Tuy nhiên, ông Tổng Bí thư lại cho rằng, kê khai tài sản cán bộ là vấn đề rất khó, nhạy cảm. Rõ ràng, nếu một người đứng đầu còn tư duy nhạy cảm, thì lấy cớ gì để bảo rằng, 'chống tham nhũng là không có vùng cấm'? Khi kê khai tài sản chưa được thực hiện, thì lấy cớ gì để khẳng định rằng, 'tham nhũng đang được kiềm chế'. Nói cách khác, cuộc chiến chống tham nhũng hiện tại có xu hướng thực hiện ở phần 'ngọn'. Chưa kể, bản thân ông Tổng Bí thư - người được là 'thanh liêm', tuy nhiên, ông lại phớt lờ đề nghị đòi công khai tài sản cá nhân từ nhóm trí thức trong nước. Vậy thì, 'kê khai tài sản' cán bộ dưới quyền ông (về mặt đảng) thế nào cho được? Bây giờ hãy trộn lẫn cả hai vấn đề 'đặc khu' và 'tham nhũng' vào một để cho thấy tính cộng sinh của nó. Đất đai ở ba đặc khu được làm giá trên trời, và đầu cơ đang tiếp tục diễn ra một cách sôi động, ngay cả trong đội ngũ quan chức cấp cao. Và chuyện đầu cơ (hay dưới lớp từ mỹ miều là 'sốt đất) lại được ông Bộ trưởng Bộ TN&MT đánh giá là 'đương nhiên'. Người dân nhìn vào 3 đặc khu chỉ nổi lên mỗi cụm từ 'mua đất - bán đất', thậm chí, có một thông tin được kháo nhau giữa các nhà báo trong nước, là đặc khu sẽ được thông qua vì quan chức nhà nước nhờ người đứng tên những lô đất lớn. Những phi vụ 'mua đất' ở đặc khu, bởi những quan chức đảng và nhà nước lại đặt ra câu hỏi: tiền đâu? Khi câu trả lời không mang tính thuyết phục, thì câu hỏi sẽ đặt tiếp ra: làm thế nào? Vậy thì lúc này sẽ phải tiến hành kê khai tài sản những người mua đất nhiều nhất ở 3 đặc khu này, như một quá trình đầu tiên để chống tham nhũng, thậm chí gián tiếp là chống 'đầu cơ đất'. Dù thế, có vẻ vấn đề này vượt quá tầm với, ngay cả với ông TBT Nguyễn Phú Trọng, và vì vậy, lợi dụng đặc khu để tham nhũng hay tham nhũng để hình thành đặc khu trở thành hai thách thức lớn nhất, về cả mặt 'nói và làm' đối với 'người đốt lò vĩ đại' - Nguyễn Phú Trọng, không chỉ bây giờ, mà cả về sau. Khi không trả lời được cả hai thách thức này, thì mọi phát ngôn 'vì dân' sẽ tiếp tục được đánh dấu hỏi. Và có lẽ, đây là một thách thức không hề dễ dàng vượt qua nỗi với thể chế hiện tại. Chú thích: [1] http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=398458 VNTB gửi BVN | |||||
Doanh nghiệp Mỹ thất vọng vì TQ hứa nhưng 'không tiến bộ' Posted: 19 Aug 2018 05:07 PM PDT
Ảnh: GETTY IMAGES - Ông Tập Cận Bình (trái) và ông Donald Trump (phải) tại Bắc Kinh năm 2017 Bắc Kinh có nguy cơ mất đi hỗ trợ quan trọng từ cộng đồng doanh nghiệp Mỹ ở TQ - hiện thất vọng về sự thiếu tiến bộ trong cải cách thị trường được hứa hẹn từ lâu. Sự thiếu tiến bộ của Bắc Kinh trong cải cách thị trường khiến hỗ trợ của cộng đồng doanh nghiệp Mỹ tại Trung Quốc suy giảm, theo The South China Morning Post. Nhận định này được đưa ra trước vòng đàm phán mới giữa hai nước Mỹ - Trung nhằm giảm căng thẳng thương mại hiện đang leo thang. Các công ty Mỹ có mặt rộng khắp ở thị trường Trung Quốc vốn được coi là một kênh hiệu quả để thay mặt Bắc Kinh vận động hành lang và ảnh hưởng đến các nhà hoạch định chính sách ở Washington. Các quan chức Trung Quốc cũng tìm kiếm sự hỗ trợ của họ để thúc đẩy Nhà Trắng giỡ bỏ cuộc chiến thương mại. Nhưng các doanh nghiệp Mỹ mang danh "bạn bè" từ nhiều thập kỷ qua cho đến nay ngại lên tiếng cho Chính phủ Trung Quốc. "Họ không hài lòng với tình hình cạnh tranh thị trường ở Trung Quốc và muốn tiếp tục gây áp lực lên Chính phủ nước này cho đến khi giải quyết những lo ngại của họ", một cố vấn của Chính phủ Trung Quốc về vấn đề thương mại, cho hay. Hơn một tháng kể từ khi chiến tranh thương mại bắt đầu với việc đánh thuế lẫn nhau, Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tiếp tục đàm phán, có thể ở cấp thấp hơn các cuộc đàm phán trước đó. Theo The Wall Street Journal, các nhà đàm phán Trung Quốc và Mỹ hy vọng sẽ tìm ra một thỏa thuận trước khi ông Trump và ông Tập Cận Bình gặp nhau tại hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng 11/2018. Thứ trưởng Bộ Thương mại Trung Quốc Vương Thụ Văn sẽ dẫn đầu một phái đoàn đến Hoa Kỳ vào 22-23/8 để thảo luận về các vấn đề thương mại và kinh tế với Bộ trưởng Tài chính Mỹ David Malpass, các nguồn tin cho hay. Nhưng vẫn còn sự chia rẽ lớn trong việc giải quyết xung đột thương mại thế nào, và không bên nào cho thấy bất kỳ dấu hiệu sẵn sàng nhượng bộ. Washington muốn Trung Quốc giảm mạnh thặng dư thương mại của mình với Mỹ và thay đổi chính sách công nghiệp, nhưng Bắc Kinh cho rằng Mỹ đang đòi hỏi quá nhiều và không chịu cải thiện mô hình tăng trưởng kinh tế được nhà nước bảo trợ. Sau khi áp đặt mức thuế 25% trên 34 tỷ đô la của hàng hóa của nhau từ ngày 6/7, Washington và Bắc Kinh đều cho biết sẽ áp thêm thuế đối với gói hàng hóa trị giá 16 tỷ đô la từ ngày 23/8. Nhiều biện pháp trừng phạt đang diễn ra, và các nhà quan sát nghi ngờ liệu các cuộc đàm phán sắp tới ở Washington có thể đạt được bất kỳ giải pháp nào hay không. Các lãnh đạo doanh nghiệp nước ngoài đã nhiều năm kêu gọi Bắc Kinh hành động cụ thể để hiện thực hóa lời hứa về mở rộng khả năng tiếp cận thị trường, tạo sân chơi công bằng cho các doanh nghiệp và cải thiện môi trường pháp lý. Jake Parker, Phó chủ tịch Hội đồng Kinh doanh Mỹ - Trung Quốc, nói rằng cộng đồng doanh nghiệp nước ngoài "thất vọng rõ ràng" với việc thiếu những cải cách và mở cửa thực sự kể từ khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới năm 2001. "Đã có rất nhiều hứa hẹn về cải cách và rất nhiều yêu cầu 'kiên nhẫn', nhưng không có gì nhiều xảy ra. Ở một số khu vực - dư thừa năng suất, công nghệ (nhà cung cấp và người dùng), cấp phép - mọi thứ trở nên tồi tệ hơn… ", Parker nói. Doanh nhân nước ngoài cũng cảnh báo rằng tình hình sẽ làm tổn thương tâm lý nhà đầu tư và bày tỏ lo ngại về ảnh hưởng ngày càng tăng của nhà nước trong nền kinh tế và hoạt động kinh doanh. Bắc Kinh trong năm nay đã bắt đầu tăng tốc tự do hóa thị trường bằng cách mở rộng hơn nữa lĩnh vực tài chính và dịch vụ, nhưng cho hay việc này sẽ diễn ra theo 'tốc độ riêng'. Và các công ty nước ngoài tiếp tục theo dõi và chờ đợi. Các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động tại Trung Quốc chia sẻ lo ngại của Mỹ về việc tiếp cận thị trường bị hạn chế, các quy định không rõ ràng hoặc không đồng đều và trợ cấp của Chính phủ cho các công ty trong nước trong các ngành công nghiệp chiến lược quan trọng. Trong khi đó, nhiều người trong cộng đồng doanh nghiệp Mỹ nói rằng Nhà Trắng đang sử dụng phương pháp sai để giải quyết các vấn đề. "Cộng đồng doanh nghiệp Mỹ đã không phản đối chiến lược về Trung Quốc của ông Trump và đã đóng vai trò trung gian bằng cách dỗ dành cả hai bên tham gia vào cuộc đối thoại 'người lớn' hơn. Do đó, các doanh nghiệp Mỹ đang áp dụng cách tiếp cận 'chờ và đợi' mà không tính đến hậu quả lâu dài", James Zimmerman, một đối tác tại văn phòng Bắc Kinh của công ty luật Perkins Coie, nói. Ông lo ngại rằng chiến thuật của Trump sẽ không dẫn đến tiến bộ thực sự, trong khi giới doanh nhân Mỹ ở Trung Quốc về mặt lịch sử luôn ủng hộ "ngoại giao yên tĩnh và tham gia mang tính xây dựng" để thúc đẩy tiếp cận và cải cách thị trường. Nguồn: https://www.bbc.com/vietnamese/world-45231569 | |||||
Anh Trần Huỳnh Duy Thức tuyệt thực Posted: 19 Aug 2018 11:04 AM PDT
LS Lê Công Định
Hôm nay gia đình anh Thức đến Trại giam số 6 Nghệ An thăm anh theo thường lệ, thì thấy anh Thức rất mệt và yếu do đã tuyệt thực 5 ngày, kể từ 14/8/2018. Trước đó, từ ngày 6/8/2018 anh Thức cũng đã từ chối thức ăn của trại và chỉ ăn mì gói do gia đình gửi vào trước đó. Từ 5 ngày nay, anh Thức chỉ uống nước và nói gia đình mang tất cả thức ăn trong lần thăm gặp này về. Lý do tuyệt thực là phía an ninh đang muốn gây áp lực buộc anh Thức nhận tội để được đặc xá. Trong suốt buổi thăm gặp hôm nay, anh Thức luôn lặp lại nhiều lần với vợ và em trai rằng: "Có đặc xá anh cũng không chấp nhận bởi vì đơn giản anh không có tội. Anh không bao giờ chấp nhận đặc xá, không bao giờ. Không chờ đợi hay xin xỏ gì hết. Ở hết án, rục xương cũng được, nhưng dứt khoát không cần đặc xá". Sở dĩ nhà cầm quyền muốn trả tự do cho anh Thức bằng cách đặc xá là vì họ không muốn áp dụng một quy định luật pháp mới có lợi cho mọi tù nhân nhân quyền, đó là Khoản 3, Điều 109 và Điều 14 của Bộ luật Hình sự 2015 về hành vi "chuẩn bị phạm tội" liên quan đến cáo buộc "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân", theo đó mức hình phạt tù chỉ từ 1 năm đến 5 năm. Nếu áp dụng điều khoản luật mới có lợi nói trên, nhà cầm quyền buộc phải trả tự do ngay lập tức và không điều kiện những người đã bị bắt giam về tội danh lật đổ chính quyền theo Điều 79 của Bộ luật Hình sự cũ. Đó là điều họ không muốn. Đó cũng là lý do vì sao khi Luật sư Ngô Ngọc Trai viết nhiều thư phân tích pháp lý dựa trên luật mới để yêu cầu họ trả tự do cho anh Thức, thì nhận được câu trả lời từ các cơ quan tố tụng có liên quan với nội dung tránh né đề cập đến luật mới, và cố tình hướng đến hình thức đặc xá, rồi nhấn mạnh "chưa có cơ sở pháp lý để xét đặc xá" (!)(?). Cơ sở pháp lý để đặc xá đó chính là bản nhận tội mà anh Thức phải chính tay viết. Gây áp lực buộc nhận tội lên anh Thức không thành, nhà cầm quyền sử dụng "biện pháp nghiệp vụ" quen thuộc là gây khó khăn cho sinh hoạt của anh trong tù. Từ 2 tháng nay, Trại giam số 6 có tên cai ngục mới là Trần Duy Phong, đội trưởng giáo dục. Tên này tìm mọi cách gây khó khăn cho anh Thức như sau: 1) Tự ý đặt ra quy định mới về thư và đơn từ, theo đó anh Thức chỉ được viết thư cho 1 người trong gia đình, đơn từ gửi cho các cơ quan tố tụng cũng chỉ được gửi đến 1 cơ quan. Mỗi tháng chỉ được gửi 2 thư/đơn. 2) Từ tháng 6/2018 đến nay không cho anh Thức gửi về gia đình các sáng tác nhạc, thơ, văn. 3) Kiến nghị của anh Thức gửi đến Chủ tịch nước không được chuyển đi. 4) Bốn đơn khiếu nại gửi cho Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Nghệ An và Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao cũng không được chuyển đi và không có bất kỳ thông tin phản hồi nào từ Trại giam. Cuối buổi gặp gia đình, anh Thức tuyên bố "sẽ tuyệt thực 10 ngày để yêu cầu nhà nước thượng tôn pháp luật và miễn toàn bộ hình phạt còn lại để trả tự do cho tất cả những người chuẩn bị phạm tội "hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân" theo Khoản 3, Điều 109 và Điều 14 của Bộ luật Hình sự 2015". Anh Thức đòi hỏi "thượng tôn pháp luật phải là thương hiệu quốc gia quan trọng nhất của Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế". Anh Thức nói sẽ cố gắng vượt qua thử thách này và xin Ba anh tha lỗi nếu có bất trắc xảy ra, và muốn mọi người hãy vững tâm tiếp tục đấu tranh cho con đường tương lai của Việt Nam. Anh Thức cũng cho biết đang khiếu nại và nếu đến ngày 23/8/2018 mà Trại giam số 6 không giải quyết thì sẽ tiếp tục tuyệt thực. Mong mọi người hãy quan tâm đến trường hợp tuyệt thực lần này của anh Trần Huỳnh Duy Thức. Nhà cầm quyền hãy tuân thủ luật pháp và trả tự do vô điều kiện cho anh Thức! Nguồn: FB Lê Công Định | |||||
Chính quyền ngày càng dã man và hung bạo Posted: 18 Aug 2018 08:53 PM PDT Trương Duy Nhất
Không dừng ở những phương cách "dầu nhớt, mắm tôm" như trước. Cuộc trấn áp các nhà bất đồng chính kiến và phong trào dân chủ Việt đã sang giai đoạn rất bạo tàn. Một Huỳnh Thục Vy đang nuôi con nhỏ mới 22 tháng tuổi bị khởi tố. Một Phạm Đoan Trang bị đánh đến chấn động não. Rồi những bản án nặng nề tàn độc: 10 năm cho Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, 9 năm cho Trần Thị Nga, 7 năm cho Nguyễn Văn Hoá, 15 năm cho Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Trung Tôn và Trương Minh Đức (12 năm), Nguyễn Bắc Truyển (11 năm), Hoàng Đức Bình (14 năm)... và mới nhất là 20 năm với Lê Đình Lượng. Trấn áp, có khiến họ sợ hãi?Không! Với các nhà tranh đấu, tù đày không khiến ai run sợ. Càng bỏ tù nhiều, càng thêm nhiều người đấu tranh. Tăng cường đánh đập, trấn áp thô bạo, chỉ đốt cháy thêm lòng căm thù chế độ. Sức mạnh của chính quyền là ở khả năng đối thoại được, chứ không phải đe nẹt trấn áp. Đã có lần, tôi mạnh bạo thử khuyên vài vị đương ghế "thượng triều", nên từ bỏ cách trấn áp đi, ngồi lại đối thoại, một lần lắng nghe để biết họ đấu tranh gì, đòi hỏi gì. Ngay với các cuộc xuống đường biểu tình cũng vậy. Nhưng chẳng ai nghe. Hình như, có một lần, duy nhất một lần nghe ông Võ Văn Thưởng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo trung ương nhắc đến ý tưởng "đối thoại". Có vẻ, nó chỉ như một câu lỡ mồm ngẫu hứng, rồi im bặt, không còn nghe bất kỳ một ai nhắc đến. Chưa thấy, bất kỳ một chuyển biến dân chủ nào trong bộ máy đương quyền. Ngược lại, chỉ thấy một chính quyền đang ngày càng dã man và hung bạo. Nhớ đâu hồi 2009. Trong một bài trả lời phỏng vấn của tôi, cựu Uỷ viên BCT, Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra trung ương đảng Đỗ Quang Thắng đã không giấu giếm khi thẳng thắn rằng: "Người Cộng sản có phẩm chất tuyệt vời. Tôi tin điều đó. Nhưng khi đã thoái hoá biến chất thì họ trở nên độc ác hơn ai hết". Giờ, nhắc lại câu ông Thắng khiến tôi rùng mình. Hay phải chăng, đây là "giai đoạn phát triển" tất yếu của thể chế Cộng sản? T.D.N. | |||||
VN: Có 'bàn tay đạo diễn' biểu tình chống luật đặc khu? Posted: 18 Aug 2018 08:50 PM PDT
Có thể có 'bàn tay đạo diễn' đằng sau các cuộc biểu tình gần đây ở Việt Nam chống dự luật về ba đặc khu Vân Phong, Phú Quốc, Vân Đồn, một ý kiến trong các khách mời nói với một cuộc Hội luận của BBC hôm 16/8/2018.Không ngoại trừ 'bàn tay này' có thể 'xuất phát từ nội bộ' của nhà cầm quyền với các 'phe phái lợi ích đối lập' nhau, một nhà báo độc lập từ Sài Gòn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nêu quan điểm với BBC Tiếng Việt. Tuy nhiên, ý kiến của khách mời khác tại Bàn tròn thứ Năm từ London tuần này cho rằng nếu điều này có cơ sở, thì đó chỉ là một trong các nhân tố. Nhân tố chính vẫn là 'lòng yêu nước' lên cao của người dân trong cả nước kết hợp với yếu tố 'phổ biến của mạng xã hội', nhà thơ, dịch giả Hoàng Hưng, người trực tiếp chứng kiến các cuộc xuống đường ở TP. Hồ Chí Minh các năm gần đây nói chung và ở Sài Gòn hôm 10/6/2018 nói riêng.
Mới đây, hôm 13/8, người lãnh đạo ngành Công an Việt Nam, Thượng tướng, Bộ trưởng Tô Lâm được truyền thông chính thức nhà nước và Cổng thông tin điện tử Bộ Công An trích thuật, cho rằng: "Các vụ tụ tập biểu tình đã phát hiện nhiều đối tượng hình sự, ma túy, với tâm lý 'sống ảo', thích được thể hiện", thậm chí các đối tượng khai nhận đã nhận tiền "từ 200.000 VND tới 400.000 VND" để biểu tình. 'Do yêu nước kèm mạng xã hội'Trước hết, nhà thơ Hoàng Hưng, thành viên sáng lập Ban vận động thành lập Văn đoàn độc lập Việt Nam, thành viên sáng lập Tạp chí văn nghệ mạng Văn Việt nêu quan điểm, bình luận về nhận đinh của lãnh đạo ngành Công an của Việt Nam. "Không riêng ông Tô Lâm, mà nói chung các lãnh đạo cao cấp lâu nay luôn có một luận điệu vu khống là có các thế lực kích động biểu tình. Bản thân tôi cũng trong số các nhân sĩ trí thức đã bị truyền hình Việt Nam đưa đích danh hình ảnh tên tuổi là người kích động biểu tình (vụ Formosa)," nhà thơ Hoàng Hưng nói.
Nhà thơ Hoàng Hưng chia sẻ trên FB cá nhân của ông rằng ngày 10/6/2018 ông chỉ ra quan sát, rồi bị cuốn vào dòng biểu tình, nhờ đó ông chứng kiến sự kiện. FB HOANG HUNG "Nhưng lâu nay, đa số nhân sĩ phản biện đều bị giam trong nhà mỗi khi sắp có biểu tình, mà biểu tình vẫn diễn ra ngày càng đông, càng mạnh. Sau đó, lại nói là bọn thù địch, Việt Tân... kích động. "Rồi giờ là "bọn xấu" chung chung. Nhưng chưa hề bắt được, đưa ra xử được kẻ kích động nào cụ thể. Ngược lại, chính tôi và vài nhà báo độc lập chứng kiến mấy kẻ kích động người dân xông vào nhà máy (vụ Bình Dương) (mấy tên đội mũ cối, nói giọng Nghệ Tĩnh) mà Công an ko không làm gì, sau cũng không thấy xử án, mà chỉ xử một số công nhân hôi của...
"Tôi có chất vấn cán bộ của Bộ Công an việc này (khi họ vào gặp, hỏi ý kiến trí thức về việc Giàn khoan HD981), họ không trả lời được (sau đó, có tin truyền là chính 'bọn Hoa Nam' kích động đốt phá để phá hoại kinh tế và lấy cớ cho nhà nước cấm 'biểu tình chống Tàu.'" Mặc dù tham gia chương trình Bàn tròn thứ Năm từ Texas, Hoa Kỳ, nhà thơ Hoàng Hưng khẳng định đây chỉ là nơi ông ghé thăm mùa hè này, mà ông vẫn sinh sống ở Sài Gòn là chính và ông chia sẻ từ kinh nghiệm cá nhân của mình góc nhìn về biểu tình ở Việt Nam: "Là người trực tiếp tham gia nhiều cuộc biểu tình, có cả vợ tôi cũng tham gia, tôi quan sát và khẳng định đó là tình cảm yêu nước, lo cho an nguy của đất nước, bất bình với nhà nước của người dân đã ngày càng rộng lớn. "Kẻ kích động Biểu tình chính là những kẻ tàn hại đất nước, không dám 'chống Tàu xâm lược'. Các nhà lãnh đạo phải nhìn thẳng sự thật, ứng xử đàng hoàng tử tế với dân, thừa nhận sai lầm... chứ không thể cứ dùng cách vu cáo như thế. "Dù có người như anh Phạm Chí Dũng, cho là cuộc Biểu tình ngày 10/6/2018 có bàn tay của 'một bộ phận Công an' và lực lượng 'trong nội bộ chính quyền' tổ chức để phản đối luật Đặc khu (nhằm đòi chia chác quyền và lợi), tôi vẫn khẳng định: nếu có sự tổ chức như thế, chỉ là một bộ phận lợi dụng Biểu tình. "Còn vẫn dứt khoát khẳng định Biểu tình là lòng dân tự giác, nhờ nhiều nhất là mạng xã hội. Chính vì thế Quốc hội mới vội vã thông qua Luật An ninh mạng để ngăn chặn," nhà thơ Hoàng Hưng chia sẻ với Bàn tròn thứ Năm phát đi từ London. 'Bàn tay đạo diễn và thuyết âm mưu?'
Cuộc biểu tình chống Luật Đặc khu diễn ra hôm 10/6/2018 ở Sài Gòn được cho là có sự tham gia của 'cả vạn' người dân xuống đường đến từ ở khắp nơi trong và ngoài thành phố. GETTY IMAGES Trước đó, cũng tại bàn tròn, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng, Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam nêu quan điểm và cho rằng có thể có một 'bàn tay vô hình' từ trong 'nội bộ ngành Công an và Chính quyền' đứng đằng sau 'lợi dụng lòng yêu nước' của nhân dân để 'giật dây' biểu tình và thủ lợi cho 'phe cánh của mình'. Khi được hỏi liệu có căn cứ gì hay không để nhận định như vậy và liệu đây có phải là một dạng 'thuyết âm mưu' hay là không, ông Phạm Chí Dũng nói: "Tôi đưa ra một thực tế để chứng minh như thế này, vào ngày 10/6, gần như toàn bộ giới đấu tranh dân chủ, nhân quyền thứ nhất là không kêu gọi biểu tình, trừ một trang 'Tập hợp Quốc dân Việt' ở hải ngoại, còn lại ở trong nước không có bất cứ một cá nhân hay tổ chức xã hội dân sự nào kêu gọi biểu tình vào ngày 10/6.
"Điều thứ hai, vào ngày đó thì đa số giới đấu tranh dân chủ nhân quyền đều bị chặn ở nhà mà không được đi biểu tình. Tôi cũng bị chặn và rất nhiều người bị chặn, chỉ có một số ít đi được thôi. "Cho nên không thể nói là cuộc biểu tình ngày 10/6 là xuất từ yêu cầu đòi hỏi và yêu sách như lời kêu gọi của giới đấu tranh dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam. Nó khác với những cuộc biểu tình chống Trung Quốc trước đây là từ giới đấu tranh dân chủ, nhân quyền. "Nhưng mà cuộc biểu tình ngày 10/6 chống luật đặc khu, lại không phải từ giới đấu tranh dân chủ nhân quyền, như vậy thì từ đâu? Bây giờ chúng ta đặt dấu hỏi là từ đâu, để thấy rõ rằng nếu như xác định được từ đâu là biết chắc rằng thuyết âm mưu sẽ biến thành hiện thực một cách rất là nhanh chóng. "Và thông tin thứ hai mà tôi nói là tôi nghe một số người thông tin sau cuộc biểu tình ngày 10/6, họ đặt những dấu hỏi đầu tiên còn nghi ngờ, nhưng sau đó rất nhiều người đã đồng thuận với nhau rằng việc này 'phải có bàn tay' của Công an. "Tại vì từ trước đến giờ không có một cuộc biểu tình nào có thể nổ ra một cách sôi động và với số đông như vậy mà 'không có bàn tay của Công an', hoặc không có sự 'tạo điều kiện gián tiếp' của Công an". 'Do dân, giới hoạt động hay chính quyền?' Và nhà báo độc lập từ Sài Gòn đưa ra thêm so sánh để củng cố luận điểm có tính giả thuyết của mình, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói tiếp:
Cuộc biểu tình ở Hà Nội hôm 10/6 cũng có 'hàng nghìn' người tham gia xuống đường phản đối Luật Đặc khu. GETTY IMAGES "Tôi muốn nói là ngay trong cuộc biểu tình phản đối giàn khoan HD981 của Trung Quốc vào tháng 5/2014, thì cũng trong những đoàn biểu tình đó cũng có những nhóm của Công an, cũng có những nhóm của Dư luận viên, gọi là những nhóm 'ngụy biểu tình' đi tổ chức biểu tình để đánh lạc hướng, để phân hóa đám đông biểu tình ra. "Thì kỳ này cũng có những nhóm như vậy và có một điều cũng lạ lùng là mặc dù không có lời kêu gọi nào của giới đấu tranh dân chủ, nhân quyền, nhưng khi đi vào biểu tình, lại xuất hiện những băng-rôn, cờ quạt đã được chuẩn bị một cách nghiêm túc, một cách quy mô từ trước và theo từng nhóm. "Và đúng giờ đó thì những nhóm đó hội tụ với nhau tại Bà Quẹo, tại Ngã tư Bảy Hiền và tổ chức biểu tình và sau đó kéo về công viên Hoàng Văn Thụ. Thế thì đây là vấn đề cần phải nói là rất khó hiểu từ phía người dân, mà từ phía chính quyền.
"Có nghĩa là thế này, ông Nguyễn Thiện Nhân nói là đã không chế được 700 đối tượng, nhưng tại sao tới giờ Công an ở Sài Gòn hay Công an ở Bộ Công an lại không công bố, hoặc không dám công bố rằng những đối tượng đó là thuộc xã hội dân sự, thuộc thế lực thù địch, hay là thuộc về người dân, hay là thuộc về phe phái nào ở trong nội bộ Đảng? "Thì hoàn toàn không có sự công bố nào và tình trạng không công bố như vậy cũng giống y chang như tình trạng đã không công bố một chút nào về những kẻ lạ mặt đã gây ra dẫn đầu cuộc biểu tình và đập phá ở tỉnh Bình Dương vào năm 2014. "Như vậy, tất nhiên chúng ta chưa có đầy đủ cơ sở để khẳng định rằng việc 'phe phái nội bộ tổ chức biểu tình' chỉ là thuyết âm mưu, nhưng cũng có rất nhiều câu hỏi mà từ phía chính quyền đã không hề trả lời, đã không hề hồi âm và không hề giải thích. "Làm cho người dân và giới phân tích càng ngày càng nghi ngờ rằng chỉ có thể một phe phái ở trong nội bộ có tiềm lực về tài chính, có tiềm lực về tổ chức và đặc biệt có tiềm lực về Công an, và 'có sự chỉ đạo' ở trong một bộ phận nào đó của Công an, thì mới có thể tạo ra một cuộc biểu tình lớn như vậy". 'Củng cố thêm giả thuyết?'
Tiến sỹ Phạm Chí Dũng đặt ra giả thuyết về việc liệu 'đã có một bàn tay vô hình' từ trong 'nội bộ của chính quyền' và các 'nhóm lợi ích' đã lợi dụng lòng yêu nước để 'đạo diễn' cuộc biểu tình hôm 10/6/2018 nhằm đem lại quyền lợi cho mình. FB PHẠM CHÍ DŨNG Chủ tịch Hội Nhà báo Độc lập Việt Nam cũng đưa ra thêm từ quan điểm riêng của ông một số dữ liệu nữa mà theo ông là có thể củng cố thêm cho giả thuyết đang được đề cập, Tiến sỹ Phạm Chí Dũng nói tiếp: "Và một vấn đề nữa cũng cần đặt ra là cuộc biểu tình đó nhằm mục đích gì và tại sao 50.000 công nhân [Công ty] Pouyuen [ở quận Bình Tân, TPHCM], những người đầu tắt mặt tối chỉ lo làm việc kiếm cơm, mà họ lại quan tâm đến Luật Đặc khu đến mức mà sau khi cuộc biểu tình ngày 10/6 đã trôi qua, vào ngày hôm sau và hôm sau nữa, công nhân Pouyuen vẫn tiếp tục biểu tình và nổ ra thậm chí đập phá nữa rất dữ dội?
"Như vậy thì ai đã tổ chức, ai đã đạo diễn các công nhân Pouyuen biểu tình chống Luật Đặc khu như vậy? Và thêm một thông tin này cũng cần phải chú ý thêm là Luật Đặc khu được cho là thuộc về lợi ích của một nhóm chính khách ở trong nội bộ của Đảng Cộng sản mà không phải là lợi ích của nhiều chính khách. "Và những chính khách khi không có lợi ích ở trong Luật Đặc khu, đặc biệt là ở trong các đặc khu Vân Đồn, Phú Quốc và Vân Phong, thì không thích Luật Đặc khu này và thậm chí là chống Luật Đặc khu này. "Đó là lý do mà tại sao lại có giả thuyết cho rằng chính những nhóm quan chức không thích Luật Đặc khu đã có thể 'tiếp một bàn tay' vào việc 'đạo diễn' cuộc biểu tình ngày 10/6 chống Luật Đặc khu. "Và cũng đặt ra một giả thuyết là tại sao gần đây Ủy ban Thường vụ Quốc hội lại thay đổi quan điểm như chong chóng, khi trước đó đưa ra định bàn về Luật Đặc khu và đưa ra Quốc Hội, nhưng mà sau đó lại không đưa vào nghị trình bàn Luật Đặc khu nữa? "Và ông Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc còn nhân nhượng, thỏa hiệp hơn khi nói rằng Luật Đặc khu phải lấy ý kiến của nhân dân, mặc dù chưa đề cập đến việc Trưng cầu Dân ý với Luật Đặc khu", Tiến sỹ kinh tế Phạm Chí Dũng nói thêm với Bàn tròn thứ Năm từ Sài Gòn. Trên đây là các ý kiến xuất phát từ quan điểm riêng của các khách mời tham dự Tọa đàm Bàn tròn thứ Năm của BBC Tiếng Việt, chúng tôi sẽ tiếp tục giới thiệu thêm ý kiến của các khách mời trong các bài vở khác có liên quan, mời quý vị và các bạn đón theo dõi. | |||||
Tập Cận Bình không dám đánh bom nợ Posted: 18 Aug 2018 08:40 PM PDT Ngô Nhân Dụng Ông Vladimir Putin đã thử đánh Mỹ bằng thứ bom này vào đầu năm nay. Trong Tháng Tư, 2018, Nga đã bán 84% số công trái của chính phủ Mỹ (US Treasury bonds), trị giá $81 tỷ. Tháng Ba, Nga còn làm chủ $96 tỷ công trái Mỹ, đến Tháng Năm chỉ còn dưới $15 tỷ. Khi có người bán một thứ gì, bán rất nhiều và trong một thời gian ngắn, thì "món hàng" đó mất giá trên thị trường ngay lập tức. Giá US Treasury xuống, nghĩa là mức lời, gọi là suất lời (yield), của công trái Mỹ tăng lên. Thí dụ, một công trái mang lãi suất cố định 3%, trước đây bán nguyên giá $1.000, mỗi năm trả $30 thì suất lời, yield cũng là 3%. Nhưng nếu công trái đó mất giá, chỉ còn $960, thì suất lời tăng lên. Chính phủ Mỹ vẫn trả $30, không hơn, nhưng những người chủ mới của công trái lãnh $30 trên số vốn $960 thì suất lời thành 3,75% (30/960). Chính phủ Nga quyết định tống khứ một số lớn công trái Mỹ ra thị trường cốt để trả đũa Mỹ đánh thuế trên thép và nhôm nhập cảng từ Nga. Sau khi Nga đánh trả đòn, lợi suất của các công trái 10 năm của Mỹ đã tăng vọt lên trên 3%, lần đầu tiên cao như vậy kể từ năm 2014. Nếu suất lời tăng rồi cứ tiếp tục cao như thế, thì lần sau chính phủ Mỹ đi vay sẽ phải trả lời lãi cao hơn trước. Nhưng trong Tháng Năm vừa qua, suất lời, yield, trên công trái 10 năm của Mỹ lại xuống ngay dưới 3%, như cũ. Vì vẫn có rất nhiều người muốn mua công trái Mỹ. Con số $81 tỷ Nga bán ra, so với số công trái của Mỹ trị giá gần $21.000 tỷ, cũng như muối bỏ biển, không gây ảnh hưởng nào đáng kể. Nhưng ông Tập Cận Bình nắm trong tay một số công trái Mỹ "khổng lồ", hơn ông Putin cả chục lần. Trái bom của ông Putin chỉ là bom thường, cộng sản Trung Quốc có thể dùng đến bom nguyên tử. Nếu ông Tập Cận Bình cũng đánh như ông Putin, thì kinh tế Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nặng. Trên báo, đài của Trung Cộng, đã có người kêu gọi hãy dùng thứ bom này để đe dọa ông Donald Trump. Ông Tập Cận Bình chỉ cần "tuýt" ra một lời tuyên bố sẽ bán rất nhiều công trái Mỹ mà nước Tàu đang giữ, chắc chính phủ Mỹ sẽ phải ngưng cuộc chiến tăng thuế quan ngay, ngồi công bàn chuyện đình chiến! Nếu ông Tập Cận Bình muốn dùng chiến thuật này, thì bây giờ là lúc thuận lợi nhất. Bởi vì chính phủ Mỹ đang bắt đầu đi vay ngày càng nhiều vì số khiếm hụt ngân sách đã tăng sau khi Quốc hội làm luật cắt giảm thuế cho các công ty. Chính phủ thiếu tiền thì đi vay bằng cách bán công trái. Ngày 30 Tháng Mười Hai, 2016, tổng số nợ nần của chính phủ Mỹ còn dưới $20.000 tỷ. Tháng Tư, 2018, số nợ đã lên tới $21.000 tỷ, và sẽ còn tăng nhanh hơn. Không ai sắp đi vay nợ lại muốn lãi suất lên cao, chính phủ Mỹ cũng vậy. Cho nên, nếu Trung Cộng tung ra thị trường một số lớn công trái Mỹ, chắc ông Trump sẽ chịu lùi một bước vì một mũi tên sẽ bắn trúng hai mục tiêu! Thứ nhất là đẩy lãi suất ở Mỹ lên cao. Nếu Trung Cộng tuyên bố sẽ bán mỗi tháng $100 tỷ công trái Mỹ, liên tục trong mươi tháng, thì thị trường sẽ xáo trộn khó lường. Suất lời trên công trái Mỹ ảnh hưởng trên các thứ lãi suất khác, tất cả sẽ theo nhau tăng lên. Các công ty đi vay sẽ tốn kém hơn có thể phải hoãn phát triển; người vay tiền mua nhà cũng tốn hơn, thị trường địa ốc sẽ xuống. Người tiêu thụ sẽ mất tin tưởng, không chi tiền như trước, cả nền kinh tế bị ảnh hưởng. Một hậu quả thứ khác là giá đồng đô la Mỹ sẽ lên. Khi lãi suất ở Mỹ tăng, nhiều người sẽ đem tiền tới cho vay, và họ phải mua đô la Mỹ. Đồng đô la lên giá sẽ khiến hàng hóa Mỹ bán ra nước ngoài tăng giá khi được bán bằng tiền bản xứ. Các công ty xuất cảng ở Mỹ sẽ phải giảm hoạt động. Các nhà đầu tư thấy lãi suất lên sẽ bán bớt cổ phiếu để mua trái phiếu, làm thị trường chứng khoán tụt xuống. Kinh tế Mỹ sẽ lâm nạn, lúc đó đồng đô la sẽ xuống giá. Trung Cộng có khả năng gây ra những biến cố trên, vì đang làm chủ các công trái Mỹ trị giá $1.200 tỷ, là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ. Ngoài ra họ cũng mua khoảng $100 tỷ khác nhưng để nhờ ở nước Bỉ. Họ cũng làm chủ các trái phiếu một số cơ quan tín dụng Mỹ được chính phủ bảo trợ, như Fannie Mae, trị giá khoảng $200 tỷ nữa. Tổng cộng, Bắc Kinh có trong tay trái bom $1.500 tỷ giấy nợ của nước Mỹ. So với số nợ khổng lồ mà chính phủ Mỹ đang vay thì con số $1.200 tỷ cũng chỉ chiếm khoảng 6%. Thực ra, những chủ nợ quan trọng nhất của chính phủ Mỹ, 70% số tiền vay là do dân Mỹ cung cấp, chỉ có 30% là chủ nợ nước ngoài. Đó là một ưu thế của Mỹ cũng như Nhật Bản, vì hầu hết các chủ nợ là người trong nước. Các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu bổng lúc nào cũng cần mang tiền đầu tư vào chỗ an toàn. Mà trên thế giới không có cách đầu tư nào an toàn bằng cho nhà nước Mỹ vay; biết chắc rằng thế nào cũng được trả lãi và vốn. Nhưng một điều làm cho Tòa Bạch Ốc không lo bị ông Tập Cận Bình tấn công bằng bom nợ, là vì kẻ ném bom cũng có thể chết vì bom. Trước hết, khi bán hàng trăm tỷ đô la công trái Mỹ khiến giá các công trái đó tụt xuống thì chính người bán đang tự gây lỗ lã cho chính mình, mua lúc đắt bán lúc rẻ. Khi bán công trái Mỹ, Bắc Kinh sẽ phải đầu tư vào chỗ khác. Chỗ nào khác? Mua công trái những nước khác hay mua vàng đều khiến các món đó tăng giá! Nhưng riêng hành động bán và mua hàng ngàn tỷ đô la này cũng đủ làm xáo trộn các thị trường và cả nền kinh tế thế giới! Khi kinh tế toàn cầu xuống thì tất cả đều suy thoái, nhưng lâm nguy nặng nề nhất là những nước tùy thuộc vào việc xuất cảng. Trung Quốc đứng đầu trong đám này. Nếu kinh tế Mỹ bị ảnh hưởng vì quả bom nợ Trung Cộng tung ra, thì ngân hàng trung ương Mỹ sẽ phải đối phó. Bắc Kinh muốn bán bao nhiêu công trái Mỹ, Quỹ Dự Trữ Liên Bang sẽ in tiền ra mua không mệt, vì chính Federal Reserve vẫn là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ! Để chống lại tình trạng lãi suất ở Mỹ tăng, Quỹ Dự Trữ Liên Bang, Federal Reserve, sẽ thay đổi chính sách tiền tệ nhằm giảm lãi suất, và họ có khả năng làm việc đó. Một hậu quả là giá trị đồng đô la Mỹ sẽ giảm cùng với lãi suất ở Mỹ. Hậu quả là giá trị đồng nguyên, tiền của Trung Cộng sẽ tăng lên so với đô la. Mà đó là điều mà các chính quyền ở Bắc Kinh đều muốn tránh. Bao năm nay, họ bán hàng cho Mỹ, thu đô la về rồi lại đem cho chính phủ Mỹ vay, dùng cách đó để giảm hối suất đồng tiền của họ. Bởi vì mỗi lần mua công trái chính phủ Mỹ lại cần đổi đồng nguyên sang đô la để mua, mà mua nhiều đô la thì đô la phải [?] giá! Một điều Bắc Kinh không thể nào chỉ huy được, là trong giao dịch thương mại quốc tế hiện nay người mua kẻ bán vẫn thanh toán với nhau bằng đô la Mỹ! Giá trị đồng nguyên lên tức là giá bán hàng xuất cảng của Trung Quốc sẽ tăng khi tính ra đô la, sẽ khó bán hơn. Nếu muốn vượt qua rào cản này, Trung Cộng có thể nhận các nước thanh toán bằng đồng nguyên của mình. Họ sẽ phải đi mua đồng nguyên để trả hóa đơn. Nhưng như thế thì giá trị đồng nguyên càng tăng thêm nữa, như một cầu thang xoáy trôn ốc lên cao! Cuối cùng, nếu Bắc Kinh khởi động việc bán công trái chính phủ Mỹ hàng loạt thì không phải chỉ gây hại cho kinh tế Mỹ. Kinh tế nước Tàu cũng xính vính. Cuộc chiến tranh thuế quan biến thành chiến tranh tiền tệ, hai bên lâm chiến bước vào tình cảnh "chắc chắn tiêu diệt lẫn nhau" (mutually assured destruction) không bên nào thoát được. Cho nên, ông Tập Cận Bình sẽ không dám đánh trả đũa bằng trái bom công trái Mỹ! Năm 2012, Bộ Quốc phòng Mỹ đã làm cuộc nghiên cứu về mối đe dọa trên an ninh quốc gia khi Trung Cộng mua quá nhiều công trái Mỹ. Nếu thấy có vấn đề, chắc chắn chính phủ Mỹ có quyền hạn chế không bán nữa. Nhưng cuộc nghiên cứu đi tới kết luận rằng Trung Cộng sẽ không thể nào đem các công trái Mỹ ra bán hàng loạt mà không tác hại cho chính mình. N.N.D. Nguồn: https://www.nguoi-viet.com/binh-luan/tap-can-binh-khong-dam-danh-bom-no/ | |||||
Tôi tham gia biên dịch “Thơ Văn Lý Trần” Posted: 18 Aug 2018 08:38 PM PDT Trần Thị Băng Thanh Cuối năm 1968, tốt nghiệp Lớp Đại học Hán học, 5/6 sinh viên ở lại Viện Văn học, được đưa về Tổ văn học Cổ cận đại. Tôi (Trần Thị Băng Thanh), Hoàng Lê và Ngô Thế Long ở Nhóm Cổ đại, cùng với 3 cán bộ của Viện là Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Văn Phát được giao "làm" Thơ văn Lý Trần (TVLT), do Nguyễn Huệ Chi làm Trưởng nhóm. Sau một thời gian, hình như gần 2 năm, khảo sát đối chiếu với sách vở của Thư viện, cảm thấy không đảm nhiệm nổi tiến độ công việc, Nhóm trưởng Huệ Chi đề nghị Gs Đặng Thai Mai cho Nhóm Cận đại do Trần Nghĩa làm Nhóm trưởng chia sẻ bớt công việc. Vì thế TVLT có thêm Nhóm Lý Trần II. Nhóm II gồm Trần Nghĩa (Nhóm trưởng), Nguyễn Đức Vĩ, Trần Lê Sáng, Đào Thái Tôn, Phạm Đức Duật. Ít lâu sau Nhóm I được bổ sung Phạm Tú Châu cùng tốt nghiệp ĐH Hán học, từ Tổ khác chuyển sang (khi Nguyễn Văn Phát, Ngô Thế Long chuyển đi). Chúng tôi bắt tay vào công việc, mỗi người được giao bản thảo một số tác giả, do hai bác Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình thực hiện từ trước. Nhiệm vụ là tiếp tục việc các bác đã làm, đối chiếu lại để chỉnh sửa và sưu tầm, khảo chứng, biên dịch những tài liệu sưu tầm mới… hình thành bộ Thơ văn của thời đại Lý Trần. Bản thảo đã có từ trước được chia ra, phần ai nấy lo. Công việc chủ yếu là: Nhóm trưởng có trách nhiệm điều hành công việc, duyệt bản thảo của các thành viên trong Nhóm để hoàn chỉnh từng tập bản thảo bộ sách. Riêng Nhóm trưởng Nhóm I Nguyễn Huệ Chi phải viết phần "Khảo luận", xác định khái niệm, thời gian, đối tượng của TVLT, khái quát quá trình sưu tập từ các thế kỷ trước, các vấn đề văn bản học trong từng thời kỳ lịch sử… ngoài ra còn đề xuất các loại việc, phần việc, phương pháp làm việc, các quy chuẩn…, định hướng cho công việc. (Xin xem Khảo luận đăng đầu Tập I TVLT). Bản thân tôi cũng như các thành viên khác của hai Nhóm, theo các tiêu chí và quy chuẩn, phương pháp đề ra trong "Khảo luận", phải làm các công việc sau: - Mở rộng nguồn tài liệu để tìm kiếm thêm tác phẩm; thu thập thêm những tác phẩm theo tiêu chí do Nhóm đã quy định, tìm thêm ở các sách mới phát hiện, ở sách nước ngoài, các phát hiện của các học giả từ trước 1945, các học giả ngoài nước, các nhà nghiên cứu Phật giáo, khảo cổ, dân gian, kể cả kho lưu trữ dưới dạng microfilm… và đặc biệt là tham gia công tác điền dã, thu thập thêm hoặc đính ngoa những chỗ các sách Thi văn tập thời trước có thể chép nhầm, hoặc đã chỉnh sửa. - Tập trung vào công việc khảo dị hiệu đính, đối chiếu thêm các dị bản mà bản thảo của các bác chưa làm. - Dịch những tác phẩm chưa dịch. - Rà soát lại bản thảo của hai bác Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình đã dịch chú, tùy theo hiện trạng cụ thể của từng tác phẩm mà xử lý. Vì TVLT không còn bản gốc nên công việc xác định văn bản hết sức quan trọng. Mỗi tác phẩm, chúng tôi đều phải xác định được nguồn gốc văn bản, nếu còn nghi vấn cũng phải nêu rõ, nếu quả có sự nhầm lẫn thì đành phải bỏ ra. Vài ví dụ cụ thể, ví như bài thơ Tức sự được sách cổ chép là của Huyền Quang, những người đọc thơ văn Lý Trần ai cũng thích, sau nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát phát hiện là nhầm, nên đành phải đưa ra (mặc dù bản thân tôi cũng rất tiếc); bài thơ khẩu khí của Lý Thái Tổ, do phát hiện của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch (lúc ấy ông đang ở Viện Văn học) cũng phải rút ra, mặc dù bài thơ dịch của nhà thơ Nam Trân rất hay; bài liên ngâm giữa Lý Giác và Pháp Thuận, nhiều thơ văn đối đáp tương truyền là của Mạc Đĩnh Chi trong lần đi sứ nhà Nguyên cũng chỉ đưa xuống giai thoại; riêng Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn được sưu tập từ trước thế kỷ XIX, là tập thơ của một tác giả lớn, ban đầu Ngô Thế Long phát hiện ra một số bài trong bản chép tay hiện có không thấy trong các tuyển tập của thế kỷ XV. Sau Nguyễn Huệ Chi khảo sát kỹ, tìm ra một số lớn bài bị lẫn với các tác giả có tên tuổi của thế kỷ XVIII như Nguyễn Tông Khuê (Quai), Nguyễn Kiều…, nên chúng tôi cũng đành gác lại… Sau gần 7 năm cặm cụi mà thời gian hầu như dồn hết cho TVLT, Tập I do nhóm chúng tôi, gồm Nguyễn Huệ Chi (Nhóm trưởng), Đỗ Văn Hỷ, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu, Hoàng Lê (ban đầu có Ngô Thế Long và Nguyễn Văn Phát, sau cả hai chuyển đi sớm, riêng Ngô Thế Long có 3 tác phẩm, trong đó có 2 văn bia dịch chung với tôi trong tập này), đã hoàn thành và được xuất bản vào năm 1977. Những năm đó miền Bắc không còn nhà in nào có chữ nho, NXB đã đề xuất chỉ in phần tiếng Việt, nhưng Huệ Chi không đồng ý, anh chạy vạy, tìm được cách xin chữ Hán ở báo Tân Việt Hoa, tuy vậy họ chỉ có chữ Trung văn giản thể, đành chấp nhận. Lúc này Nhóm I chỉ còn 4 người, anh Hỷ không làm việc này được, nên mọi việc Nhóm trưởng Huệ Chi phải lo; Băng Thanh và Tú Châu tham gia đọc bông và vì công nhân không biết chữ Hán nên phải đến tận nhà in Thống Nhất giúp họ xếp chữ Hán vào từng khuôn chữ Việt đã được sắp chữ (việc này rất vất vả, sau khi Huệ Chi đã thuê xích lô chở các khuôn chữ chì từ báo Tân Việt Hoa về nhà in, chúng tôi cùng phải đọc ngược đối chiếu với bản thảo, chữa chỗ sai, tự cắm chữ vào, in thử lần 1, lần 2, có khi lần 3, được rồi mới ký bông). Tôi không nhớ rõ khâu bông can này mất bao nhiêu thời gian, chỉ cảm giác là rất lâu, khi sách được in ra, không thật như ý, cũng đành chịu, có chữ Hán in kèm là may rồi. Tập III thì đúng 10 năm, các bạn Nhóm II đem vào Sài Gòn, nhờ được các cụ chữ đẹp viết chữ Hán nên tập sách in rất chỉn chu, và được ra mắt năm 1978. Mười năm sau, cũng theo kinh nghiệm của Tập III, TVLT Tập II Quyển thượng đưa vào Sài Gòn, nhưng lúc đó không tìm được các vị viết chữ nho nữa. Chúng tôi rất lúng túng, may nhờ nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân thỉnh được Thượng tọa Thích Đức Nghiệp hoan hỷ công đức viết cho chữ Hán và cả chữ Nôm toàn bộ, sách mới in được, phải 5 tháng mới xong. Nhớ lại, tôi nghĩ rằng nếu ngày ấy không có công đức của Thượng tọa Thích Đức Nghiệp và sự giúp đỡ tận tình của ông Nguyễn Quảng Tuân, cùng với sự nhiệt tình của ông Lý Thái Thuận là chủ nhà in nơi chúng tôi in sách, thì TVLT Tập II Quyển thượng chưa chắc đã có thể in được trong thời gian cả đất nước khó khăn như thế… Kể ra việc bếp núc thì mỗi công trình một vẻ với những khó khăn và thuận lợi riêng, chẳng thể so sánh và chưa chắc TVLT Tập II Quyển thượng đã là khó khăn nhất. Nhưng với tôi thì công việc đó cũng "quá tải". Một chuyện nữa mà tôi muốn được chia sẻ là vấn đề dịch. Khi về Nhóm TVLT chúng tôi được Viện giao nhiệm vụ vừa rà soát tu chỉnh bản thảo đã có, vừa tiếp tục sưu tập, biên dịch, khảo chứng và chú thích để có một bộ thơ văn hoàn chỉnh. Do vậy diện sưu tầm mới mở rộng và thời gian phải ngược lên, bắt đầu từ triều đại giành độc lập đầu tiên – Ngô Quyền. Tác phẩm thì bao gồm cả sấm ký, ngữ lục, tuyên ngôn (là những thể loại lần đầu được chính thức nhìn nhận là sáng tác văn học), được khôi phục từ sử sách và cả các tác phẩm tôn giáo (như quan niệm đã đề ra ở phần "Khảo luận" mà Nhóm trưởng trình bày mấy buổi trước khi viết thành văn, kể cả vấn đề nội hàm và ngoại diên của thời đại văn học được gọi là "Lý Trần", hai nhóm chúng tôi có thảo luận và nhanh chóng nhất trí). Còn về việc dịch, chúng tôi theo quy định: - Dưới mỗi bài văn xuôi, đề tên người dịch; - Dưới mỗi tác phẩm thơ, chỉ đề tên người dịch thơ (Quy định này thời ấy khá phổ biến, như thấy ở các bộ Hợp tuyển thơ văn nhiều tập, hoặc bộ Hoàng Việt thi văn tuyển…, do NXB Văn hóa cho in trong những năm cuối 50 và đầu 60, cho nên nhiều người dù dịch nghĩa, chú, khảo dị, đính ngoa rất nhiều bài vẫn không một lần có tên dưới tác phẩm dịch). - Tùy theo sự tham gia sửa chỉnh, nhuận sắc vào bản dịch đến đâu mà đề tên theo các mức: để nguyên tên người dịch; thêm chữ "theo" trước tên người dịch; cùng đứng tên (sau hoặc trước); và cuối cùng, nếu thấy bài dịch phải chỉnh sửa nhiều, bản thảo đã có chỉ dùng như tài liệu tham khảo, thì hoặc tự dịch lại và ghi tên của mình, hoặc mời người khác dịch (trong anh chị em hai nhóm hoặc ở ngoài), thay bản dịch cũ. Ở Tập I những bài đứng tên đồng dịch giả, hoặc mời người ngoài dịch thêm không nhiều lắm. Chúng tôi đã bổ sung non một nửa, từ những tài liệu sưu tập, khai thác mới, ví như các văn bia sưu tầm ở các cuộc điền dã (8 bia), các tài liệu dưới dạng ngữ lục nhưng thực sự là một tác phẩm triết học, văn học, sử học (ví như Tham đồ hiển quyết của Thiền sư Viên Chiếu, chính là tác phẩm giảng về thiền học, rất uyên thâm về triết thuyết Thiền và rất giàu chất văn chương; Thư gửi Hùng Bản; lời tranh cãi của Lê Văn Thịnh ở Hội nghị biên giới Vĩnh Bình; Biểu đòi đất hai động Vật Dương Vật Ác – những tác phẩm này có thể xem như mở đầu dòng văn chương ngoại giao của nước ta; Lộ bố đánh vào đất Tống…), thu thập từ các loại sách sử, sách tôn giáo, các ghi chép ở sách nước ngoài. Nhưng đến Tập II, nguồn tài liệu mới, tài liệu tham khảo rộng hơn, cộng tác viên nhiều hơn nên chúng tôi, ngoài ngót một nửa số tác phẩm mới tìm thêm, đối với bản dịch, nhất là dịch thơ, có nhiều lựa chọn hơn, và vì vậy danh tính người dịch cũng đông đảo hơn. Tên của các thành viên trong nhóm hiện diện trong sách, có khi còn ít hơn cả cộng tác viên. Xin đơn cử một thí dụ, trường hợp tác giả Trần Nhân Tông mà tôi chịu trách nhiệm "biên soạn" (Nhiệm vụ là: sưu tầm tác phẩm mới; viết tiểu sử; dịch và hoàn chỉnh các bài dịch nghĩa; khảo dị hiệu đính và chú thích toàn bộ tác phẩm của Trần Nhân Tông; đặt tên bài, trường hợp chưa có tên). Nhà vua có 36 tác phẩm, thì danh tính người dịch hiện diện dưới các bài dịch như sau: Ngô Tất Tố 5 bài, Trần Lê Văn 14 bài, Đào Phương Bình 4 bài, Huệ Chi 5 bài, Đỗ Văn Hỷ 3 bài, Trần Trọng Kim, Nhóm Lê Quý Đôn, Khương Hữu Dụng, mỗi người 1 bài, Băng Thanh 3 bài. Chọn lại những bài đã có từ trên sách báo trước 1945 là cách làm thống nhất của hai nhóm, Tập I và Tập III đều đã theo như thế, nhưng có thể Trần Nhân Tông là trường hợp khó dịch (và cũng mong có những bài dịch thật đạt) nên tôi chưa chọn được đủ bài. Bản thảo không hoàn thành, Viện trưởng Hoàng Trung Thông phải mời giúp nhà thơ Trần Lê Văn "cứu trợ". Tôi nhớ một ví dụ, như bài Xuân hiểu (in ở Tập II Quyển thượng, trang 453-454). Bài thơ chỉ có 20 chữ, và cũng đã có vài bản dịch, nhưng cân nhắc mãi, tôi vẫn thấy được câu này thì mất câu kia, và cuối cùng chọn bài dịch của Trần Lê Văn, lý do là (như tôi cảm nhận) ông đã đưa vào bài dịch được vẻ ngỡ ngàng của tác giả trước cảnh xuân chợt về, và không khí rộn ràng của một sớm xuân… Một số bài khác cũng khó dịch như bài biếu bánh sứ Tàu Trương Hiển Khanh nhân ngày 3 tháng Ba, bài Đề chùa làng hương Cổ Châu, bài Tiễn sứ Tàu Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai, Trần Lê Văn đều dịch rất có hồn. Bây giờ đọc lại sách tôi vẫn thấy những bài đã chọn, dù của người trong nhóm như Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Huệ Chi, hay các vị tiền bối Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng, Đào Phương Bình, vẫn là những bài dịch hay; tôi tự nghĩ những bài thơ dịch mình đã chọn giữ lại là chính xác. Rất nhiều trường hợp, khi quá băn khoăn hay tiếc rẻ, nhóm "cãi nhau" mà vẫn không thể nhất trí, chúng tôi cắt dán "các bản dịch khác" kèm vào bản thảo đánh máy mang đến để hai Giáo sư duyệt Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy quyết định (tôi và hình như có cả chị Châu đảm nhiệm việc đưa đi duyệt này). Và các ông cũng đã quyết định rất thẳng thắn. Thực ra, đối với những sách cổ, như TVLT, thì bản dịch vẫn là khâu cuối cùng quan trọng nhất, nó mang dấu ấn phong cách người dịch và quan điểm người biên soạn (cũng có thể phụ thuộc ít nhiều vào thời điểm biên soạn). Dịch cũng là một nghệ thuật, dịch đúng bắt buộc phải am hiểu chữ nghĩa, có kiến thức văn hóa, có năng lực cảm thụ…, nhưng nhiều khi cũng có cả yếu tố ngẫu nhiên, "cờ ngoài bài trong". Chính vì vậy, trong công trình TVLT những bài dịch thơ của bác Nam Trân, chúng tôi không thay thế bài nào, nhưng cũng có bài đã đứng tên chung với cụ Lê Thước hoặc bác Đào Phương Bình (do chính nhà thơ sửa bản dịch cũ và đề thêm tên mình), hoặc nữa đứng tên chung với Phạm Tú Châu, hay được in kèm thêm một "Bản dịch khác" (có lần là bản dịch của tôi)… Nếu cho rằng sản phẩm của mình là tuyệt đối đúng, là hay nhất, hoàn chỉnh nhất thì không phải, nhưng trong khi thực thi nhiệm vụ thì mỗi người phải làm việc và dám chịu trách nhiệm về kết quả công việc mình làm. Chọn đúng hay chọn sai, sửa đúng hay sửa sai, thậm chí việc "lợn lành chữa thành lợn què" đều có thể xảy ra. May sao 3 tập TVLT hai nhóm chúng tôi đã hoàn thành cũng không có gì sai sót lớn, lâu nay đã được trong giới chấp nhận và tin cậy. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy có lẽ đây là một công trình mà tính cộng đồng và kế thừa cao nhất so với các công trình cùng loại. Về thời gian có thể tính đến thế kỷ, từ những bài đăng rải rác trên Nam phong, các công trình Văn học đời Lý, Văn học đời Trần của Ngô tất Tố, Khóa hư lục của Thiều Chửu, các công trình nghiên cứu của nhà thư mục học Trần Văn Giáp, của các nhà văn học sử Nguyễn Đổng Chi, Đào Duy Anh, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, các nhóm văn học sử ở các trường Tổng hợp, Sư phạm, những học giả ở xa là Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Lang, Nguyễn Đăng Thục, Trúc Thiên, mà khá lâu sau năm 1975 chúng tôi mới tiếp cận được, tiếp đó là bản dịch của các vị túc nho Lê Thước, Nguyễn Lợi, Đồ Nam Tử, Đoàn Thăng, … rồi đến hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình là bước làm tập trung đầu tiên của Viện trong mấy năm nửa đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, và đến hai nhóm chúng tôi, bây giờ đã bổ sung thêm thế hệ Đặng Thị Hảo, Phạm Ngọc Lan, rồi Phạm Văn Ánh, Quách Thu Hiền, và những ai nữa mà tôi đã về hưu không biết rõ, đến nay đã là đầu thế kỷ XXI. Tính về nhân sự, riêng "nhóm viên" các thế hệ cũng đã xấp xỉ hai chục người. Thực ra tính vấn đề của một công trình khoa học là không giới hạn cả về không gian và thời gian. Mà TVLT không chỉ là một công trình khoa học, nó còn là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa nước nhà, là chứng tích của một trong không nhiều thời kỳ rực rỡ nhất của đất nước và dân tộc còn giữ lại được sau những mất mát lớn lao. Bộ TVLT của Viện Văn học có được thực ra không thể là công lao riêng của Viện Văn học. Như tôi nghĩ, đóng góp chính của Nhóm TVLT của Viện là đã làm được một việc "tập đại thành" những kết quả của nhiều thế hệ dịch giả (trong đó có việc dịch bổ sung của chúng tôi), và do đó phác họa được diện mạo thơ văn, thể hiện đời sống văn hóa, tư tưởng của đất nước, dân tộc 6 triều đại thời kỳ đầu quốc gia độc lập. Đó là một thành quả rất đáng trân trọng, giữ gìn. Riêng giai đoạn Viện Văn học cũng đã có thể phân làm hai thời kỳ. Thời kỳ đầu do hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình đảm nhiệm. Hai bác đã dịch chú xong nhiều tác giả, tác phẩm (hiện có tên dưới các bài dịch trong bộ sách). Gần đây tôi nghe nói có bức hình chụp chữ ký của Pgs Nguyễn Văn Hoàn, xác nhận con số 911 trang bản thảo TVLT do hai bác giao lại. Không biết như thế đã đầy đủ chưa, nhưng đó hẳn là thành quả của thời kỳ đầu này mà hai bác đã hoàn thành. Hai bác là bậc túc nho nên bản dịch của các bác nói chung đạt được nhiều tin cậy. Nhưng Gs Đặng Thai Mai cho rằng có nền móng bản thảo của hai bác, vẫn phải chỉn chu hơn nữa và sưu tầm rộng hơn nữa. Do vậy hai nhóm chúng tôi chia nhau làm tiếp, và đối với bản thảo đã có đều cố gắng gia công vào các phần xác định xuất xứ, khảo dị, hiệu đính, dịch nghĩa, lựa chọn các bài dịch thơ bổ sung, thay thế, như tôi đã nói ở trường hợp Trần Nhân Tông. Ngày nay, nếu đọc lại TVLT cũng có thể thấy được cung cách làm việc ấy. Chẳng hạn: ở những chỗ dịch thơ để trống (nhiều bài, như còn thấy ở Tập III), hoặc thơ dịch chưa thật đạt thì chọn lại thơ dịch của Ngô Tất Tố, của các dịch giả trên Nam phong, Đuốc tuệ và các sách khác, hoặc mời cộng tác viên dịch, và tự dịch. Ví như: hai tác giả Vương Vụ Thành và Nguyễn Ức ở Tập III do Trần Nghĩa (Tuấn Nghi) và Hoàng Lê biên soạn, chỉ giữ lại 1 bài thơ dịch của Đào Phương Bình. Ở Tập II Quyển thượng, các tác giả Phạm Ngộ, Phạm Mại do Tuấn Nghi biên soạn, Trần Quang Triều, do Phạm Tú Châu biên soạn đã không giữ lại 1 bài thơ dịch nào của bản thảo đợt I. Trần Tung do Nguyễn Huệ Chi biên soạn (các nhà sưu tập trước đều tưởng nhầm là Trần Quốc Tảng, Huệ Chi đã sớm phát hiện ra là Trần Tung, sau đọc Nguyễn Lang mới biết ông cũng từng tìm ra Trần Quốc Tung), đã bổ sung thêm các phần Đối Cơ, Tụng cổ; phần thơ giữ nguyên được 4 bài thơ dịch của Đào Phương Bình. Trần Quang Khải do Nguyễn Huệ Chi biên soạn, Trần Thánh Tông do Phạm Tú Châu biên soạn đều chỉ giữ lại được 1 bài thơ dịch của Đào Phương Bình… Trường hợp Phạm Sư Mạnh là một tác giả lớn của Tập III, có 43 bài thơ và 1 bài văn bia (không rõ ai chịu trách nhiệm "biên soạn"), nhưng trong sách hiện có thì Đào Phương Bình dịch 8 bài; 3 bài lấy lại bản dịch của Đinh Văn Chấp đăng từ trước năm 1945; 7 bài là dịch mới của người trong hai nhóm (Đào Thái Tôn 4 bài, Tuấn Nghi 1 bài, Trần Lê Sáng 1 bài, Đỗ Văn Hỷ dịch bài văn bia), vẫn còn 24 bài không có thơ dịch. Xem ra 12 thành viên trẻ của cả hai nhóm biên soạn cũng đã làm việc cẩn thận, kỹ càng. Thời kỳ thứ hai sau các bác do 12 chúng tôi (sau có thêm thế hệ 3) đảm nhiệm. Đóng góp của thời đoạn này, theo tôi nên được ghi nhận ở 4 phần việc sau: - Phần "Khảo luận", như một cương lĩnh làm việc cho công trình TVLT và cũng đưa ra những gợi ý quan trọng để độc giả quan niệm về một giai đoạn văn học, những đối tượng văn học, các loại hình văn học buổi sơ khai của văn học viết, giới thuyết những lý luận của tiền nhân về quan niệm "văn" thời ấy và về những vấn đề liên quan đến tiến trình hình thành các dòng phái, thể loại văn chương, tổng quát lại lịch sử sưu tập, khảo cứu văn bản của tiền nhân từ xa xưa cho đến Phan Huy Chú, Bùi Huy Bích; trình bày một cách toàn cảnh (trong điều kiện có được) của thành tựu, sự còn mất của một thời đại văn học mà cho đến bấy giờ chưa có công trình nào chuyên sâu và đầy đủ như "Khảo luận". - Phát hiện, sưu tầm, bổ sung thêm nhiều tác phẩm mới mà bản thảo thời kỳ I của hai bác chưa tập hợp. Số lượng tác phẩm này cũng khá nhiều, bao gồm thành tựu của mấy chục chuyến điền dã, trên địa bàn hơn 10 tỉnh ở Bắc Bộ cho đến bắc Trung Bộ, và ở các loại thư tịch trong những thư viện lớn (Những đợt điền dã này có sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ Ty, Sở văn hóa các tỉnh, các nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật của Viện Mỹ thuật và cả một số anh em ngoài Nhóm TVLT). Hai tập đầu, tôi đã tính sơ qua ở phần trên, riêng Tập III, chỉ tính phần Phụ lục cũng đã bổ sung 149 bài. Còn Tập II Quyển hạ, chưa xuất bản nhưng tôi biết phần bổ sung ở Tập này có đến 5, 6 sách lớn, như Thánh đăng ngữ lục, Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục, An Nam chí lược, Lĩnh nam chích quái, Việt điện u linh, mỗi quyển riêng văn bản chữ Hán đã đến mấy trăm trang. Chính vì thế con số của toàn bộ bộ sách, nếu in đầy đủ, tôi nghĩ rằng không chỉ dừng ở 2420 trang in khổ 19 x 27 như hiện có (Tập I: 632 trang; Tập II Quyển thượng: 966 trang; Tập III: 822 trang) mà có thể phải tới hơn 3500 trang. Nếu quy đổi ra số trang bản thảo chép tay có lẽ cũng đến hơn 5.000 trang (mỗi trang khổ 19 x 27 ít nhất phải một trang rưỡi bản thảo)… - Những phát hiện về văn bản học, đính ngoa văn bản đã có, tìm ra quá trình truyền bản của một số tác phẩm, giúp vào việc xác định chính xác hơn những tài liệu đã thu thập được. - Rà soát và hoàn chỉnh thêm bản thảo thời kỳ I ở các công đoạn khảo chú, sửa chữa, diễn đạt lại cho văn chương cập nhật hơn, thích hợp hơn hoặc thay thế bản dịch khác nếu thấy cần thiết. Đọc trong bộ TVLT, bạn đọc có thể thấy các "biên soạn viên" thời kỳ II (Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Tú Châu, Trần Băng Thanh, Trần Nghĩa (Tuấn Nghi), Trần Lê Sáng, Nguyễn Đức Vĩ (Tiên Sơn), Đào Thái Tôn, Hoàng Lê, Phạm Đức Duật…) đều đã thực hiện công việc đó, nhiều hay ít tùy theo tình hình bản thảo đã có và theo cảm thức của mỗi người. Chỉ tiếc rằng chúng tôi không lưu giữ được bản thảo gốc, bây giờ cần đến thật không biết tìm ở đâu. Gần đây tôi đã chuyển dần "sản phẩm" của mình gửi vào Trung tâm di sản các nhà khoa học nhưng hầu như chẳng có công trình nào có được một bộ hồ sơ đầy đủ. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ, cũng mới vào nghề, chỉ lo sao hoàn thành công việc, bản thảo không chỉ làm một lần mà mỗi lần chỉnh sửa đều phải chép lại, cho nên để đỡ công và cũng đỡ tốn giấy (văn phòng phẩm thuở ấy được phát từng tháng, có đợt là loại giấy đen sì, lộn nhộn gân nứa…) chúng tôi thường cắt dán, mỗi trang có khi đến 2, 3 tầng, chị Tú Châu thường đùa tôi là "vá đụp". Cũng do vậy, bản thảo được đem đánh máy xong thì chỉ lo giữ bản chính thức, những bản trung gian không còn nguyên vẹn chẳng coi là quan trọng nữa, Nhóm chẳng thu hồi, mỗi người gói buộc lại để đâu đó, còn mất cũng chẳng quan tâm! Ban văn học Cổ cận đại cũng có 2 chiếc tủ gỗ nhưng hồ sơ thì nhiều, chẳng có chỗ, mà Viện lại càng không có nơi gửi. Tính tôi thô suất đã làm mất những bản thảo mình "biên soạn", còn các bạn tôi không biết có ai giữ được? Có những lần tôi định tra cứu một việc gì đó, tìm đến các công trình tập thể khác của Viện, kể cả của Ban, cũng chẳng còn tìm thấy bản thảo chép tay! Nhưng cái chính là chúng tôi quan niệm công trình tập thể là công sức chung, những ghi nhận cá nhân, danh tính đã có ở sách, chẳng hề tính toán hơn thiệt. Tất nhiên ngày nay nghĩ lại cách ghi danh như TVLT cũng có chỗ chưa thỏa đáng với tất cả mọi người làm. Lấy một ví dụ như xác định một văn bản một tác phẩm. Đây là một công đoạn rất quan trọng và công phu, người làm văn bản phải đọc hết các bản chép tác phẩm, lại tìm đọc các tài liệu liên quan, khối lượng trang sách gấp đến mấy lần bản được dịch, cuối cùng mới xác định được bản chọn, hoặc bản nền. Nếu tự mình làm từ đầu đến cuối thì không có gì phải phàn nàn, nhưng nhiều khi trong công trình, một vài người nào đó được giao phụ trách công tác văn bản thì công lao sẽ chẳng được ghi ở đâu. Người đọc chỉ biết ông A, bà B dịch sách đó, bài đó, … Cũng vậy, công sức khảo dị, sưu tầm, chú thích, thậm chí chỉnh sửa vài chữ, thông thường chỉ nhằm nâng cao tính xác tín của tác phẩm, giúp cho tác phẩm dễ đọc, dễ cảm hơn, nhưng cũng không ít trường hợp là những đóng góp khoa học thật sự… Dù sao, tôi cho rằng bộ sách chúng tôi đã hoàn thành là một cái mốc quan trọng trong hành trình sưu tập di sản TVLT. Tương lai chắc sẽ có những "tập đại thành" khác, hy vọng các học giả rồi đây với những thuận lợi của khoa học sẽ tìm lại được những di sản của chúng ta đã bị người Minh cướp đi, tìm thêm được những tác phẩm còn ẩn náu đâu đó trong núi rừng thiên nhiên và trong dân dã, thậm chí ở Nhật, ở Hàn... Tôi vẫn hy vọng các học giả tương lai có thể làm dầy dặn thêm nữa bộ sách của chúng ta. Riêng với tôi, được tham gia vào công việc biên soạn TVLT là một điều hết sức may mắn. Tôi được học tập rất nhiều, học chữ nghĩa, học kiến thức, học cách làm việc, học làm văn bản mà khi trước PGS Nguyễn Văn Hoàn thường gọi đùa là "chủ nghĩa tờ a tờ b của Cụ Tố, Cụ Hãn"… và nhiều nữa. Có lẽ điều kiện may mắn (hay đúng hơn là thuận lợi trong không khí làm việc) như chúng tôi khi "biên soạn" thơ văn Lý Trần có thể không dễ có. Sau khi nhận việc, chúng tôi – cả hai nhóm – còn được cho học tiếp 3 năm tại chức một lớp Chuyên tu Hán học, cho đến năm 1972 mới kết thúc, rồi sau đó, bác Đỗ Ngọc Toại vẫn tiếp tục mở lớp bổ túc kinh nghiệm dịch và cách tra cứu cho tôi và chị Phạm Tú Châu, chúng tôi luôn luôn có cố vấn để học hỏi và thảo luận, chúng tôi được các thầy khuyến khích "đương nhân bất nhượng ư sư" (trước điều đúng thì không phải nhường người thầy). Đó là một tinh thần hết sức nhân văn, do vậy trong công việc chúng tôi dám mạnh dạn sửa chữa bản thảo, góp ý cho nhau, nhưng cũng cố gắng cẩn trọng hết mức, khiến cho mỗi bản dịch dù mang tên một người nhưng ở đó nhiều khi công sức của đồng nghiệp không ít… Và cuối cùng thì Giáo sư Đặng Thai Mai và Giáo sư Cao Xuân Huy vẫn kịp duyệt xong cho chúng tôi được 3 tập trong bộ TVLT. Tôi cũng mừng vì đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, chỉ bị trách cứ nhiều lần vì "không đúng tiến độ kế hoạch". Tôi cũng mong có dịp góp phần sửa chữa những thiếu sót trong thành quả trước đây của bản thân mình và của Nhóm, nhưng cũng không dám chắc có đủ thời gian để thực hiện. Vì đã tham gia vào công cuộc sưu tầm biên soạn di sản TVLT, mà nay công trình của chúng tôi đã tròn Năm Mươi Tuổi (1968 -2018), hai nhóm chúng tôi hiện nhân số chỉ còn lại một phần ba, tôi muốn được một lần "kể lể" những công việc bản thân tôi cũng như Nhóm chúng tôi thực sự đã làm để chia sẻ trách nhiệm với các vị tiền bối trong danh nghĩa "biên soạn". Mặt khác, cũng là một lần mong được lần giở lại công lao "không thầy đố mày làm nên" của hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình đối với tôi, cũng như công sức của các thế hệ tiền bối suốt nửa đầu thế kỷ XX đã gìn giữ tài sản vô giá của đất nước, dân tộc mà tôi vẫn ngưỡng mộ coi là các bậc thầy. Mấy điều hồi ức lan man, tôi rất xin lỗi nếu đã làm phiền độc giả. Hà Nội, ngày 15- 8-2018 T.T.B.T. Tác giả gửi BVN | |||||
Mỹ gây Chiến tranh thương mại vì bị Trung Quốc kích động!? Posted: 18 Aug 2018 08:34 PM PDT Bài 1: ĐẰNG SAU VIỆC BỘ PHIM "LỢI HẠI THAY, NƯỚC TA" BỊ ĐỘT NGỘT CẤM CHIẾUThu Thủy Gần đây ở Trung Quốc nổi lên mấy sự kiện đáng chú ý: Giáo sư Hồ An Cương bị phê phán bởi thuyết "Trung Quốc đã vượt Mỹ", bộ phim "Lợi hại thay, nước ta" (Amazing China) bị ngừng phát hành sau mấy tháng gây nên cơn sốt trên cả truyền thông chính thống lẫn trên các trang mạng và báo chí được chỉ đạo không nhắc đến kế hoạch "Made in China 2025" nữa. Vì sao vậy? Đằng sau các sự kiện trên là gì? Có phải chúng là nguyên nhân trực tiếp khiến Tổng thống Mỹ Donald Trump nổi giận gây Chiến tranh thương mại với Mỹ như ý kiến của một số nhà phân tích thời cuộc trong và ngoài Trung Quốc?
"Lợi hại thay, nước ta" "Lợi hại thay, nước ta" (tên tiếng Anh: Amazing China" là bộ phim tài liệu nhựa được cắt gọt, biên tập dựa trên 6 tập phim truyền hình "Trung Quốc huy hoàng". Bộ phim do Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) và Công ty cổ phần Điện ảnh Trung Quốc phối hợp sản xuất, phát hành, được công chiếu rộng rãi trên tất cả các rạp chiếu phim toàn Trung Quốc kể từ ngày 2/3/2018 và đưa lên các trang mạng phim thương mại. Nội dung phim ghi lại những thành tựu mà Trung Quốc giành được từ Đại hội 18 (tháng 11/2012) đến nay. Bộ phim tràn ngập những hình ảnh về những "kỳ tích vượt bậc gây nức lòng người" của Trung Quốc trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật như: Máy bay tàng hình J-20, Tàu sân bay Liêu Ninh, Cầu lớn vượt biển nối Hongkong – Chu Hải – Ma Cao, Máy bay chở khách C919, Kính viễn vọng đường kính 500 m, Tàu lặn Thần Long -1, Tàu cuốc Lam Kình - 2, Phi thuyền không gian Thần Châu 11, Vệ tinh thực nghiệm khoa học Lượng tử, Xe điện Phục Hưng…
Hình ảnh biên đội tàu sân bay Liêu Ninh trong phim Xuyên suốt bộ phim là những lời ca ngợi với ngữ điệu cao ngất, được hình dung là "tác phẩm truyền đi sức mạnh Trung Quốc", gây nên cơn sốt không những ở trong nước mà cả trong người Hoa hải ngoại. Các rạp được yêu cầu chiếu bộ phim này ngày 2 ca sáng, chiều để phục vụ khán giả; các cơ quan đơn vị tổ chức cho cán bộ nhân viên đi xem tập thể, không khí trong rạp trong các buổi chiếu được mô tả "bừng bừng khí thế yêu nước và lòng tự hào dân tộc". Theo trang tin Ifeng thì tiền bán vé ở các rạp đạt tới 478 triệu NDT, lập kỷ lục lịch sử về số tiền vé thu được cho một bộ phim điện ảnh Trung Quốc.
Khán giả phất cờ, hò hét, hô khẩu hiệu khi xem phim trong rạp
Mang biểu ngữ đi xem phim tập thể Tuy nhiên, ngày 19/4 bộ phim đột nhiên bị thông báo rút khỏi hệ thống rạp, bị gỡ khỏi các trang phim trực tuyến theo chỉ thị của Ban Tuyên truyền trung ương. Việc bộ phim "Lợi hại thay, nước ta" đột ngột bị cấm lập tức gây nên sự chú ý và bàn luận sôi nổi. Trên mạng xã hội xuất hiện 2 luồng ý kiến: luồng thứ nhất cho rằng, bộ phim bị ngừng chiếu do một số nội dung nhạy cảm liên quan đến việc Mỹ chỉ trích Trung Quốc lấy cắp kỹ thuật của phương Tây, thậm chí có thể khiến các cơ quan tình báo Âu Mỹ cảnh giác; luồng thứ 2 cho rằng có lẽ các nhà sản xuất mượn cớ lệnh cấm của Ban Tuyên truyền trung ương để kiếm tiền. Ông Lỗ Nan ở Đại học Nhân dân nói, mục đích lúc đầu của bộ phim này là cổ súy chủ nghĩa dân tộc, nhưng sau khi xảy ra tranh chấp mậu dịch Trung – Mỹ, đặc biệt là "Sự kiện ZTE", Trung Quốc bị coi là lấy cắp kỹ thuật của phương Tây, các chuyên gia chuyên ngành đều lên tiếng cho rằng, cái gọi là "thành tựu trong lĩnh vực cao" của Trung Quốc không thật sự "lợi hại" như tuyên truyền trong phim. Ông nói, trong phim có nhiều chỗ mô tả đã "tham khảo, vận dụng" kỹ thuật của người khác như thế nào, nhanh chóng biến thành của mình ra sao, chả khác nào bản tự khai cung; cho nên bộ phim nhanh chóng bị gỡ xuống. Đang lúc, người Mỹ đang "mài dao" chặt chém ngành chế tạo của Trung Quốc, ZTE bị cấm giao dịch 7 năm với các hãng cung ứng Mỹ, đối mặt nguy cơ phá sản; thì "Lợi hại thay, nước ta" lại ra sức tung hô khoa học kỹ thuật của Trung Quốc thật không phù hợp và bộc lộ sự cách biệt lớn với Mỹ về kỹ thuật cao. Việc Bộ Thương mại Mỹ tuyên bố cấm các công ty Mỹ trong vòng 7 năm không được bán linh kiện, cấu kiện cho Công ty kỹ thuật cao ZTE đã khiến việc phát triển công nghệ 5G, sản xuất điện thoại thông minh và cả các công ty Huawei, Alibaba hoảng sợ. Lại có ý kiến phân tích, trong phim "Lợi hại thay, nước ta" có rất nhiều tình tiết nói về kỹ thuật, có thể bị coi là lấy cắp, dùng trộm và cưỡng bức chuyển giao kỹ thuật của Âu Mỹ, nếu họ nắm lấy làm chứng cứ thì sẽ có thêm nhiều công ty đứng trước nguy cơ diệt vong giống như ZTE. Lại có người chỉ trích, đường sắt cao tốc được gọi là "niềm tự hào dân tộc", nhưng toàn bộ cấu kiện quan trọng nhất không phải do Trung Quốc sản xuất, mã nguồn phần mềm khống chế cũng là của Đức và Nhật; rêu rao Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành trò cười trên mạng. Việc công ty ZTE bị Mỹ trừng phạt giống như một liều thuốc tỉnh ngủ mạnh khiến những người cực kỳ phấn khích bởi phim "Lợi hại thay, nước ta" đột nhiên ý thức được rằng, thì ra phía sau ảo tưởng Trung Quốc trỗi dậy còn có sự thực và nguy cơ thực tế hơn. Nhiều người sử dụng internet sau khi xem phim này xong đã giễu cợt: "chính quyền vội vã gỡ bộ phim xuống để đổi tên thành "Bị hại rồi, nước ta", hoặc "Lợi hại thay, nước Mỹ" rồi sẽ cho chiếu trở lại". Nhân dân Nhật báo điện tử trong một động thái khác thường, trong tháng 7 đã đăng liên tiếp 3 bài phê phán "thói thổi phồng, tự đại", chỉ trích trào lưu thổi phồng tự đại, lạc quan mù quáng, đề cao bản thân, hạ thấp người khác, vun vén tư tưởng dân túy khiến quốc dân tê liệt tinh thần, những tiếng nói dư luận kiểu đó "trăm điều hại, không một điều tốt". Đáng chú ý hơn là ý kiến của Giáo sư xã hội học Đại học Thanh Hoa Tôn Lập Bình viết trên Weibo được lan truyền rộng rãi. Ông viết: "Sự kiện ZTE một lần nữa cho thấy, tinh thần yêu nước kiểu Nghĩa Hòa Đoàn không ổn chút nào trước hiện thực tàn khốc! Các kỹ thuật cốt lõi, mũi nhọn, tinh túy hầu như đều nằm toàn bộ trong tay người Mỹ. Các trường đại học danh tiếng (Ivy League) và các cơ quan nghiên cứu hàng đầu của Mỹ đã hội tụ được các nhân tài giỏi nhất toàn cầu, cam chịu lặng lẽ nghiên cứu cơ sở suốt mấy chục năm; Trung Quốc chỉ trong thời gian ngắn về căn bản đừng mong đuổi kịp họ". Giáo sư Tôn Lập Bình chua chát: "Suốt ngày tung hô "Made in China 2025", suốt ngày "Lợi hại thay, nước ta", rồi "Đại quốc trọng khí" (Vật quý, quan trọng của nước lớn) chiếu hết tập này đến tập khác, khác nào gõ thanh la đánh trống lôi người khác tỉnh dậy để kiềm chế chúng ta. Lần này thì tốt rồi, lệnh cấm ZTE 7 năm, vừa đúng đến 2025! Cần phải nhớ rằng "quốc gia trọng khí" không thể đem ra cho người khác thấy, ngày ngày gào thét "Lợi hại thay… lợi hại thay" vừa gây họa cho quốc gia vừa mang đến tai ương cho nhân dân". Đồng quan điểm với Giáo sư Tôn Lập Bình là ông Lưu Á Đông, Tổng biên tập tờ "Nhật báo Khoa học kỹ thuật". Ông cho rằng "Lợi hại thay, nước ta" là phim "ngộ quốc hại dân" (đất nước hiểu lầm, nhân dân bị hại) và than phiền: Trung Quốc hiện nay thiếu tinh thần khoa học. Theo truyền thông Trung Quốc, trong 2 ngày 25 và 31/7, ông Tưởng Kiến Quốc, Phó ban Tuyên truyền trung ương đột ngột bị bãi chức Chủ nhiệm Văn phòng tin tức Quốc Vụ viện và ông Trang Vinh Văn được thăng từ chức phó lên Chủ nhiệm Văn phòng thông tin và internet Trung Quốc (Võng Tín Biện). Ngoài ra, ngày 30/7, Tân Hoa xã đưa tin Lỗ Vỹ, nguyên Phó Ban tuyên truyền trung ương, Chủ nhiệm "Võng Tín Biện" - người được gọi là "Sa hoàng mạng" bị Tòa án Ninh Ba đưa ra xét xử. Ủy ban Kiểm tra kỷ luật trung ương đã dùng những từ ngữ nặng nề đối với Lỗ Vỹ - người bị coi là người khởi xướng trào lưu sùng bái cá nhân, như: "Cực kỳ không trung thành với trung ương", "ngoài thuận trong nghịch, lừa gạt trung ương", "là kẻ hai mặt điển hình"… Tờ Đa Chiều coi lần điều chỉnh nhân sự này là "phái thực tế" loại bỏ "phái thổi phồng"; sự điều chỉnh nhân sự ngành tuyên truyền có lẽ là sự uốn nắn biện pháp tuyên truyền nhằm loại bỏ sự hiểu lầm về Trung Quốc của bên ngoài, tạo dựng nên hình ảnh đúng về Trung Quốc. Cũng có ý kiến phân tích nói, sự điều chỉnh về tuyên truyền lần này là phản ánh Trung Quốc đã bị đòn đau trong Chiến tranh thương mại. T.T. *** Bài 2: GS HỒ AN CƯƠNG VÀ THUYẾT "TRUNG QUỐC ĐÃ VƯỢT MỸ" BỊ PHÊ PHÁN TƠI BỜI Thu Thủy Việc GS Hồ An Cương, Viện trưởng Viện nghiên cứu tình hình đất nước, Đại học Thanh Hoa công bố các báo cáo cho rằng Trung Quốc đã trở thành nước đứng đầu thế giới về nhiều lĩnh vực đã gây tranh cãi sâu rộng, thậm chí Hồ An Cương còn bị coi là thủ phạm gây nên cuộc Chiến tranh thương mại Trung - Mỹ.
Giáo sư Hồ An Cương: Trung Quốc đã đuổi kịp và vượt qua nước Mỹ Gần đây, 27 học giả, nhà nghiên cứu, sinh viên tốt nghiệp trường Đại học Thanh Hoa đã đứng tên trong một lá đơn yêu cầu Đại học Thanh Hoa cách chức Viện trưởng Viện nghiên cứu tình hình đất nước (Quốc tình nghiên cứu viện) và tước bỏ học hàm của Giáo sư Hồ An Cương. Sau đó bức thư đã được hơn 1 ngàn cựu sinh viên của trường đại học danh tiếng hàng đầu Trung Quốc này hưởng ứng ký tên trong một chiến dịch công khai phê phán năng lực học thuật, trình độ tư tưởng và đạo đức của Hồ An Cương. Bức thư viết, họ lấy làm xấu hổ vì trường Đại học Thanh Hoa có một giáo sư như thế và chỉ rõ: "Mấy năm gần đây, Tiên sinh Hồ An Cương, Viện trưởng Viện nghiên cứu tình hình đất nước đã lấy tiền thuế của dân mà nghiên cứu đi ngược những kiến thức thông thường, nặn ra cái gọi là báo cáo học thuật "Sức mạnh quốc gia tổng hợp của Trung Quốc đã vượt nước Mỹ", có thể nói đã "trên khiến quốc gia nhầm lẫn khi ra quyết sách, dưới mê hoặc dân chúng, các nước ở xa cảnh giác, láng giềng gần lo ngại, thật là hại nước hại dân". Họ cho rằng, Hồ An Cương đã không chỉ làm ô danh nhà trường Đại học Thanh Hoa mà còn làm hại đất nước và nhân dân, độc hại lâu dài. Được biết, trong bản báo cáo được Hồ An Cương công bố năm 2016, ông cho rằng Trung Quốc đã trở thành nước chế tạo lớn nhất thế giới, nước xuất nhập khẩu nhiều nhất và thực thể kinh tế lớn nhất thế giới. Tháng 4/2017, tại một lần đăng đàn, ông lại công bố một bản báo cáo với kết luận: "Trung Quốc đã bước vào thời kỳ đuổi kịp và vượt qua toàn diện nước Mỹ; trong đó về thực lực kinh tế đã vượt Mỹ năm 2013, khoa học kỹ thuật đã vượt Mỹ năm 2015, sức mạnh quốc gia tổng hợp đã hoàn thành vượt Mỹ từ năm 2012. Đến năm 2016, ba thực lực trên so với Mỹ đã gấp 1,15 lần về kinh tế, gấp 1,31 lần về khoa học kỹ thuật và 1,36 lần về sức mạnh quốc gia tổng hợp, đứng thứ nhất thế giới!". Ngoài hai bản báo cáo chính "đuổi kịp và vượt qua Mỹ" trên, Hồ An Cương còn có các nghiên cứu khác với những số liệu không phù hợp nghiêm trọng với số liệu của chính phủ; ví dụ: Trung Quốc đã lần lượt trở thành quốc gia chế tạo lớn nhất năm 2010, quốc gia xuất nhập khẩu lớn nhất năm 2013 và thực thể kinh tế lớn nhất năm 2014. Ông cho rằng, trong so sánh sức mạnh quân sự Trung- Mỹ, mô thức so sánh là: "Tài nguyên quân sự = nhân viên quân sự (số quân) + ngân sách quân sự", ám chỉ đã Trung Quốc mạnh hơn Mỹ. Trong bài báo "Sự hưng suy của các nước lớn và cơ hội cho Trung Quốc – đánh giá về sức mạnh quốc gia tổng hợp" đăng trên "Kinh tế đạo san", Hồ An Cương cho rằng, các quốc gia phát triển đã "vì phát triển mà lão hóa", đang đi tới suy thoái, là cơ hội lịch sử hiếm có về "thiên thời, địa lợi, quốc hòa" đối với Trung Quốc. Vậy Hồ An Cương là ai và có vai trò thế nào? Theo tư liệu chính thức, ông sinh năm 1953, quê Chiết Giang nhưng sinh ở Liêu Ninh. Sau khi lấy bằng Cử nhân tại Học viện Luyện kim Hà Bắc, Thạc sỹ ở Học viện Gang thép Bắc Kinh, Tiến sỹ tại Viện Tự động hóa, Viện Khoa học Trung Quốc; từ 1991 đến 1992, ông sang Đại học Yale, Mỹ tiến hành nghiên cứu sau Tiến sỹ; năm 1993 tới nghiên cứu tại Khoa Kinh tế, Đại học Murray State University; năm 1997 đến nghiên cứu tại Học viện kỹ thuật Massachusetts; năm 1998 sang nghiên cứu tại khoa Kinh tế, Đại học Trung văn Hongkong; năm 2000 tới Nhật giữ chức Giáo sư thỉnh giảng trường Đại học Keio; năm 2001 tới Mỹ làm Giáo sư thỉnh giảng Học viện Chính trị Kennedy, Đại học Havard; đầu năm 2003 sang Pháp nghiên cứu tại Trung tâm Trung Quốc thuộc Viện nghiên cứu khoa học xã hội Pháp. Hồ An Cương cũng là đại biểu Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc lần thứ 18 tháng 11/2012. Từ 1985, Hồ An Cương đã tham gia Tổ nghiên cứu phân tích tình hình đất nước thuộc Viện Khoa học Trung Quốc do Chu Lập Tam lãnh đạo và dần trở thành một trong số những nhà nghiên cứu quyền uy nhất về lĩnh vực tình hình trong nước. Theo trang tin Đa Chiều, Viện nghiên cứu tình hình đất nước đặt tại Đại học Thanh Hoa do Hồ An Cương lãnh đạo là một "think tank" (cơ quan nghiên cứu) tư vấn quyết sách quốc gia hàng đầu của Trung Quốc, ấn phẩm "Quốc tình báo cáo" do trung tâm biên tập xuất bản chuyên cung cấp cho lãnh đạo cấp tỉnh, bộ trở lên tham khảo đến nay đã ra được hơn 500 kỳ. Theo trang web của Viện nghiên cứu tình hình đất nước, "Quốc tình báo cáo" đã hơn trăm lần được lãnh đạo Đảng và nhà nước bút phê, có ảnh hưởng liên tục đến các quyết sách trọng đại của quốc gia. Hồ An Cương có danh tiếng và sức ảnh hưởng nhất định ở cả trong, ngoài Trung Quốc; tên tuổi ông thường xuyên xuất hiện trên các cơ quan truyền thông như "The New York Times" và các báo cáo của các "thin tank" Mỹ. Nhiều người cho rằng báo cáo "Trung Quốc đã đuổi kịp và vượt Mỹ" do Hồ An Cương đưa ra tháng 4/2017 đã đi ngược sự thật nghiêm trọng, cổ súy tinh thần kiêu ngạo của dân chúng Trung Quốc, dẫn dắt sai ảnh hưởng tới việc tầng lớp cấp cao đề ra quyết sách ("ngộ đạo cao tầng quyết sách chế định") và gây nên sự cảnh giác, thù địch của Mỹ. Thậm chí có người cho rằng, Hồ An Cương chính là thủ phạm hàng đầu gây nên Chiến tranh thương mại Trung – Mỹ. Những tranh cãi xung quanh luận điểm của Hồ An Cương Giáo sư Vương Thiên Định ở Học viện Báo chí và truyền thông, Đại học Hải Dương Trung Quốc viết bài đăng trên tờ "Tân Kinh báo" cho rằng: "Quan điểm "Sức mạnh quốc gia tổng hợp của Trung Quốc đã vượt nước Mỹ" không những trái ngược với số liệu quyền uy của chính phủ Trung Quốc, mà còn trái ngược với cảm nhận và hiểu biết của những người bình thường sống ở Trung Quốc. Ông đánh giá nghiên cứu học thuật của Hồ An Cương "cố ý lấy lòng mọi người, đu theo tâm trạng xã hội trong thời kỳ nhất định, không chỉ bại hoại phong cách khoa học mà còn hình thành một kiểu mẫu tồi; đó là điều chúng ta không muốn thấy". Ông Long Vĩnh Đồ, cựu Bộ trưởng Bộ Ngoại thương Trung Quốc, Tổng thư ký Diễn đàn kinh tế Bác Ngao, hồi tháng 2/2018 cũng đã viết bài "Phê phán sự dẫn dắt sai lệch của Hồ An Cương về Trung Quốc đã vượt Mỹ ba thực lực". Ông viết: "Mới đây, một báo cáo thành quả nghiên cứu của Viện trưởng nghiên cứu tình hình đất nước Hồ An Cương ở Đại học Thanh Hoa nói, hiện 6 thực lực phát triển của Trung Quốc (kinh tế, khoa học kỹ thuật, sức mạnh tổng hợp, quốc phòng, ảnh hưởng quốc tế và văn hóa mềm) đều đã bước vào thời kỳ đuổi kịp và vượt Mỹ toàn diện; trong đó 3 thực lực đầu đã vượt Mỹ. Quan điểm đó là sai lầm; trong nước dẫn dắt sai lầm, ở nước ngoài càng có tác dụng dẫn dắt sai lớn hơn". Ông nói, từ trước đến nay, Trung Quốc chưa bao giờ coi thực lực kinh tế vượt Mỹ là tiền đề để xử lý quan hệ với Mỹ. Trung Quốc dù về thực lực phát triển, tố chất con người hay sức mạnh tổng hợp quốc gia đều còn có khoảng cách rất xa so với Mỹ; chúng ta cần có cảm giác bức bách và nguy cơ để không ngừng nỗ lực đuổi kịp trình độ tiên tiến của thế giới, chứ không phải là lâng lâng tự sướng". Ông kết luận, Hồ An Cương đã "dẫn dắt sai lầm tầng lớp ra quyết sách và xã hội Trung Quốc". Nhà kinh tế Phàn Cương, Phó hội trưởng Hội nghiên cứu cải cách thể chế kinh tế Trung Quốc thì cho rằng, quan điểm của Hồ An Cương khiến người ta kinh sợ; muốn thực sự thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển phải mãi giữ cái đầu lạnh và đẩy mạnh tiến độ cải cách. Ngày 21/6, ông Lưu Á Đông, Tổng biên tập "Nhật báo khoa học kỹ thuật" cũng gây chú ý khi nhắc đến thuyết "Trung Quốc đã vượt nước Mỹ" của Hồ An Cương khi thuyết giảng. Ông nói: "Khoa học kỹ thuật của Trung Quốc còn có khoảng cách rất xa so với Mỹ và các nước phương Tây phát triển. Đó vốn là điều bình thường, không thành vấn đề; thế nhưng một số người trong nước khi thì nói về "Tứ đại phát minh mới", khi thì "đuổi kịp và vượt toàn diện", "thực lực kinh tế, khoa học kỹ thuật và sức mạnh quốc gia tổng hợp của Trung Quốc đều đã vượt nước Mỹ, trở thành nước đứng đầu thế giới"… Nếu chỉ để cổ vũ sĩ khí thì đành một nhẽ, nhưng điều rắc rối là người đưa ra những luận điệu đó đã làm chao đảo lãnh đạo, dao động công chúng và cả bản thân, đó mới là vấn đề". Ông cho rằng: "Không thể phủ nhận, những lời lẽ đó đã chứng minh cho luận thuyết về mối đe dọa của Trung Quốc trên quốc tế. Những từ ngữ, luận thuyết thổi phồng khoa trương về Trung Quốc đó, dù với động cơ nào thì cũng trăm điều hại không một chút lợi, kết quả là gây họa nước hại dân". Nhân dân Nhật báo ngày 2/7 cũng vào cuộc với bài "Bàn về trào lưu thổi phồng tự đại", chỉ trích "cách nói 3 thực lực của Trung Quốc đã đuổi kịp và vượt Mỹ". Báo này phê phán một số bài viết tung hô "Trung Quốc đã dẫn đầu thế giới về một số lĩnh vực, ai cũng khâm phục", Trung Quốc hiện đã là nền kinh tế số 1 thế giới", hoặc "Mỹ đã sợ chúng ta", "Nhật bản kinh sợ, châu Âu hối hận". "Những bài báo này đã kích động tinh thần cực đoan, dễ dẫn tới công chúng tự cao tự đại, xã hội sa vào thông tin vỡ vụn, vô hình trung cổ súy tư tưởng dân túy". Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến bảo vệ và ủng hộ Hồ An Cương. Một số người nói, họ "không tán thành quan điểm của Hồ An Cương, nhưng cực lực phản đối hành vi thông qua liên danh viết thư bức bách nhà trường sa thải Hồ An Cương, đó là sự chà đạp tự do học thuật và tự do ngôn luận". Ông Mai Tân Dục, nghiên cứu viên của Bộ Thương mại đã viết bài trên Weibo cá nhân ủng hộ Hồ An Cương, nói phương pháp nghiên cứu của ông có thể có vấn đề, nhưng đó là tự do học thuật, không nên vì thế mà sa thải ông; cho rằng: "Sự vây đánh giáo sư Hồ cực kỳ không bình thường, đã vượt quá ranh giới tối thiểu. Ông ấy phân tích thế nào là việc của cá nhân, còn có tiếp thu hay không là việc của anh. Anh không thể vì không chấp nhận nội dung nghiên cứu học thuật mà đập vỡ bát cơm của ông ấy". Tờ "Thời báo Hoàn cầu" - ấn phẩm của Nhân dân Nhật báo tuy cũng tham gia phê phán Hồ An Cương, nhưng ông Hồ Tích Tiến, Tổng biên tập của nó lại biện hộ cho Hồ An Cương trên Weibo cá nhân: "Nếu vì ông ấy tuyên truyền nhận thức về tình hình đất nước mà bị bãi chức, thì đó là sai lầm chính trị xã hội còn đáng sợ hơn sai lầm học thuật của ông ấy" và cho rằng, "chỉ cần không công kích chế độ chính trị căn bản của Trung Quốc thì những quan điểm bị dư luận chủ lưu coi là sai lầm cũng có quyền tồn tại trong xã hội này". Ông Hoàng Nhân Vĩ, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Thượng Hải thì thẳng thắn: "Năm 2015, khi Hồ An Cương bắt đầu phát biểu diễn thuyết về "Trung Quốc đã đuổi kịp và vượt Mỹ toàn diện" thì được coi là trao đổi học thuật bình thường; nhưng sau khi Chiến tranh thương mại Trung – Mỹ nổ ra, quan điểm đó bị đẩy ra đầu sóng, ông trở thành cái bia sống cho một số người, thậm chí muốn dồn ông đến chỗ chết mới hài lòng". Trước búa rìu dư luận, ông Hồ An Cương khi trả lời phỏng vấn của mạng Tin tức Trung Quốc (Chinanews.com) đã bày tỏ không bình luận về những đánh giá đối với bản thân ông. Ông nói, những kết luận của ông được rút ra từ các luận chứng nghiên cứu học thuật nghiêm cẩn, "không thể dựa vào cảm giác phán đoán mà tự nói lời của cá nhân". Ông đề nghị những người phê phán hãy đọc các bài viết rồi đối thoại học thuật. Trang tin Đa Chiều ngày 2/8 cho biết, Hồ An Cương đã nói với các nhà báo: "Tôi đã tới Mỹ, tôi hiểu rõ nước Mỹ, tôi nhận biết Mỹ, tôi nghiên cứu Mỹ. Các ông cho rằng tôi chỉ là một chuyên gia về tình hình trong nước Trung Quốc sao? Những bài viết về sức mạnh tổng hợp đất nước Trung Quốc, kể cả bài đăng trên mạng, đó không chỉ là cần có sự nghiên cứu khoa học, mà còn cần phải có dũng khí". T.T. |
You are subscribed to email updates from Bauxite Việt Nam. To stop receiving these emails, you may unsubscribe now. | Email delivery powered by Google |
Google, 1600 Amphitheatre Parkway, Mountain View, CA 94043, United States |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét