“5 tội lớn của ngành đường sắt và 5 lời nhắn Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể” plus 9 more |
- 5 tội lớn của ngành đường sắt và 5 lời nhắn Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể
- “Láng giềng thâm độc” Trung Quốc và gọng kềm siết chặt Việt Nam
- Tập Cận Bình không dám đánh bom nợ
- TÁC GIẢ CUỐN " CHẾT BỞI TRUNG QUỐC"- TS PETER NAVARRO ĐƯỢC TT TRUMP BỔ NHIỆM LÀM QUÂN SƯ CHỐNG TRUNG QUỐC
- KỶ NIỆM 50 NĂM BIÊN DỊCH VÀ XUẤT BẢN THƠ VĂN LÝ TRẦN
- Nguyễn Ngọc Sẵng - Tàu Cộng: Một con đường nhiều bi kịch
- VÌ SAO ĐẢNG CỨ IM LẶNG MÃI, KHÔNG LÊN TIẾNG?
- Chính quyền Trung Quốc đang tăng số lượng và mở rộng nhà tù ở Tân Cương
- Tổng thống Trump lên án các mạng xã hội ‘kiểm duyệt thông tin’
- Tổng thống Trump đưa ‘Nước Mỹ vĩ đại trở lại’ trong gần 2 năm nhiệm kỳ
5 tội lớn của ngành đường sắt và 5 lời nhắn Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể Posted: 19 Aug 2018 04:00 PM PDT 19-8-2018 Đọc tin báo Vnexpress ngày 18/8/2018 về đường sắt cao tốc Bắc Nam rằng: "Đường sắt tốc độ cao Bắc – Nam được xây dựng mới, khổ đường 1.435 mm, từ Hà Nội đến TP HCM, đi qua 20 tỉnh, thành phố, dài khoảng 1.545 km và dự kiến có 23 ga". Và rằng: "Trước đó Bộ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Văn Thế đã yêu cầu tư vấn so sánh, làm rõ sự khác nhau của hai loại công nghệ về các vấn đề liên quan như suất đầu tư, giá thành, khai thác, vận hành. Những so sánh, đánh giá về công nghệ phải trung thực, nêu bật được ưu, nhược điểm và căn cứ đề xuất áp dụng ở Việt Nam". Vì đã thất kinh về vụ THU GIÁ, nên vội vàng gửi đến bộ trưởng Nguyễn Văn Thể 5 lời nhắn sau đây. I. NĂM TỘI LỚN CỦA NGÀNH ĐƯỜNG SẮT VIỆT NAM 1. Đường sắt Việt Nam từ hơn 40 năm nay, kể từ năm 1975, về cơ bản là không thay đổi. Đó là tội lớn thứ nhất. 2. Việt Nam có lãnh thổ trải dài Bắc –Nam. Nên đường sắt Việt Nam phải phát triển theo sơ đồ xương cá. Chỉ một trục xương sống duy nhất Bắc – Nam được xây dựng trước thì sẽ giải quyết cơ bản vấn đề vận tải cả nước. Còn các đường xương cá sẽ được phát triển phù hợp sau đó theo thời gian. Rất khác với các nước như Pháp hay Đức, với lãnh thổ có chiều Đông – Tây, Nam – Bắc gần tương đương nhau, hệ thống đường sắt phải nối vòng cùng các đường xuyên tâm, dài và phức tạp. Thế nhưng ngành đường sắt Việt Nam trong nhiều năm đã không nhận thấy đặc thù này để đầu tư phát triển dứt điểm cơ bản hệ thống đường sắt Việt Nam. Đó là tội lớn thứ hai. 3. Xây đựng tuyến đường sắt Bắc – Nam với tốc độ 200 km/h, như hệ thống đường sắt châu Âu, thì đi từ Hà Nội tới TP. HCM không quá 10h. Giải quyết cơ bản vấn đề vận chuyển hành khách và hàng hóa Bắc – Nam. Cắt giảm thời gian và chi phí. Tạo thuận lợi cho cho nhân dân cả nước đi lại. Là đòn bẩy mạnh mẽ để kinh tế phát triển. Thế nhưng ngành đường sắt đã không nhìn thấy điểm chiến lược cực kỳ quan trọng này để quyết tâm cố công phát triển ngành đường sắt. Đó là tội lớn thứ ba. 4. Việt Nam là nước nghèo, chậm phát triển. Nhưng ngành đường sắt lại trình dự án đường sắt cao tốc đắt tiền của các nước tiên tiến giàu có. Tốn kém mà không giải quyết được vấn đề vận chuyển đa số nhân dân, lại không vận chuyển được hàng hóa. Mục tiêu viển vông. Mục đích ngầm là hưởng lợi bất chính. Vì lợi ích riêng mà không màng đến tốn kém vô ích của quốc gia. Đó là tội lớn thứ tư. 5. Đã không thay đổi, nhưng liên tục trong suốt mấy chục năm qua tiêu hàng núi tiền mà chỉ để nâng cấp vụn vặt. Không biết hướng trọng tâm vào các nước có ngành đường sắt phát triển ở châu Âu, mà lại bám vào thiết bị lạc hậu của Trung Quốc, lại còn cả đồ thải ra. Đó là tội lớn thứ 5 của ngành đường sắt. 5 tội lớn của ngành đường sắt cũng là 5 tội lớn của lãnh đạo Bộ GTVT trong nhiều nhiệm kỳ. Ngồi ở vị trí quản lý ngành, tiêu tốn không biết bao nhiêu trăm ngàn tỷ đồng, mà để lạc hậu, không phát triển ngành vận tải chiến lược quan trọng bậc nhất của nước nhà. II. MUỐN NGHE ĐƯỢC TƯ VẤN THÌ PHẢI GIỎI HƠN TƯ VẤN Việc nghe tư vấn là chuyện đương nhiên và cần thiết. Nhưng giữa các ý kiến khác nhau thì làm sao biết đúng sai? Bởi thế, muốn nghe được tư vấn để nhận quyết định đúng thì phải giỏi hơn tư vấn. III. PHẢI CHỈ CHO CẤP DƯỚI CHỨ KHÔNG DỰA VÀO ĐỀ XUẤT CỦA CẤP DƯỚI Lãnh đạo phải biết dựa vào cấp dưới. Nhưng lãnh đạo Việt Nam trong vài chục năm trở lại đây phần lớn chỉ biết dựa vào cấp dưới. Đó là tai họa. Không phải thủ tướng chỉ dựa vào đề nghị của bộ trưởng rồi xem xét quyết định mà thủ tướng phải chỉ bộ trưởng phải làm cái gì, làm như thế nào! Không phải Bộ trưởng Bộ GTVT dựa vào ngành đường sắt rồi phê duyệt phương án của ngành đề ra, mà bộ trưởng phải chỉ cho ngành đường sắt phải phát triển như thế nào. Hãy nhìn vào lãnh đạo các nước phương Tây thì thấy sự khác biệt giữa lãnh đạo ta và họ. IV. HÃY TỰ MÌNH ĐÍCH THÂN CHỈ HUY Tuyến đường sắt Bắc – Nam giữ vai trò động lực cực kỳ quan trọng cho phát triển kinh tế nước nhà. Lại phải tiêu tốn hàng chục tỷ USD. Chọn công nghệ sai, mua thiết bị không đúng là thiệt hại cả hàng tỷ USD và sẽ làm nền kinh tế thêm chậm phất triển. Cho nên bộ trưởng Nguyễn Văn Thể phải đích thân cầm quân xây dựng tuyến đường sắt quốc gia Bắc – Nam. Ông phải dồn trí tuệ, tâm lực, thời gian cho tuyến đường sắt với tư cách một tổng công trình sư đích thực. V. KHÔNG LÀM ĐƯỢC THÌ TỪ CHỨC Làm bộ trưởng chỉ huy xây dựng đường sắt thì phải biết giá từ chiếc bulon cho đến giá một đoàn tàu. Phải biết giá thành của 1m đường sắt ở Đức, ở Pháp, ở Thụy sĩ khác nhau như thế nào. Phải biết mua thiết bị này ở Đức, Thụy sĩ hay ở Nhật hay ở nước nào là tốt hơn. Làm bộ trưởng quản lý ngành đường sắt thì phải biết hệ thống đường sắt ở các nước tiên tiến khác nhau ra sao. Phải tự mình nghiên cứu tìm hiểu chứ không chỉ dựa vào tư vấn. Phải biết chỉ ra cái sai của tư vấn, chứ không phải chỉ nêu cho tư vấn làm rõ. Không phải dựa vào cấp dưới, mà phải chỉ cho cấp dưới làm như thế nào, mua cái gì ở đâu, giá bao nhiêu. Làm bộ trưởng xây dựng tuyến đường sắt Bắc – Nam trị giá nhiều tỷ USD thì phải đích thân đàm phán giá cả. Làm bộ trưởng là phải để cho tư vấn và cấp dưới sợ hãi về chuyên môn của bộ trưởng, kinh hồn về hiểu biết giá cả của bộ trưởng, kính nể tầm nhìn và trình độ quản lý của bộ trưởng. Nếu không làm được như vậy thì từ chức. Trong nhân dân có nhiều người làm được bộ trưởng với tư cách tổng công trình sư đích thực như nêu trên. | ||
“Láng giềng thâm độc” Trung Quốc và gọng kềm siết chặt Việt Nam Posted: 19 Aug 2018 03:47 PM PDT - Nếu tìm từ khóa "kinh tế Việt Nam phụ thuộc Trung Quốc", cỗ máy tìm kiếm Google cho hần 60 triệu kết quả trong vòng chưa tới một giây, với vô vàn dữ liệu cho thấy nền kinh tế Việt Nam đang phụ thuộc nặng nề vào Trung Quốc. Trong bối cảnh toàn cầu hóa như hiện nay, việc nền kinh tế của các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau là điều không tránh khỏi. Tuy nhiên, sự phụ thuộc của kinh tế Việt Nam vào Trung Quốc hoàn toàn không phải là sự hợp tác đôi bên cùng có lợi, mà trong đó Trung Quốc hoàn toàn chi phối và lũng đoạn Việt Nam về mọi mặt, từ kinh tế cho đến chính trị và thậm chí là an ninh quốc phòng. Thực tế hiện tại cho thấy Trung Quốc không chỉ đang tiến hành lấn chiếm biển Đông mà ngay trong nội tại Việt Nam, Trung Quốc hoàn toàn chủ động trong việc lũng đoạn cả kinh tế và chính trị Việt Nam. Vài số liệu cụ thể dưới đây cho thấy lãnh thổ Việt Nam đang đứng trước hiểm họa khôn lường từ Trung Quốc: Có 23/24 nhà máy ngành xi măng do Trung Quốc làm tổng thầu (theo số liệu của Viện Nghiên cứu cơ khí công bố năm 2014). Có 15/20 dự án nhiệt điện đốt than do Trung Quốc trúng thầu, tỉ lệ nội địa hóa 0%. Có 2/2 dự án bauxite do Trung Quốc làm tổng thầu, nội địa hóa 2%, theo thống kê năm 2014. Các dự án đường sắt đô thị Cát Linh- Hà Đông, đường cao tốc Hà Nội- Hải Phòng, Hà Nội- Lào Cai, nhà máy gang thép Lào Cai, nhiệt điện Duyên Hải 1, nhiệt điện Mông Dương 2… đều rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc. Trong đó, khi có biến, đường cao tốc Lào Cai – Hà Nội nối thẳng đến cửa khẩu Kim Thành (và kết nối luôn với cao tốc Hà Khẩu–Côn Minh của Trung Quốc) như mở toang cửa cho giặc tiến vào thủ đô nước ta từ biên giới Việt – Trung. Trong các dự án có sự tham gia của các tập đoàn nhà nước Trung Quốc, có những dự án có vị trí đặc biệt quan trọng đối với an ninh quốc phòng. Điển hình như Khu du lịch nghỉ dưỡng quốc tế World Shine trên đèo Hải Vân. Theo lờitrung tướng Nguyễn Quốc Thước, nguyên Tư lệnh Quân khu IV, khu vực đèo Hải Vân là "điểm quân sự then chốt và sẽ chia cắt đất nước trong trường hợp có chiến tranh", ai làm chủ được Hải Vân"sẽ thâu tóm luôn Đà Nẵng và Huế". Còn về thế trận trên biển, Cửa Khẻm là điểm vươn xa nhất của đèo Hải Vân và gần nhất với đảo Hải Nam của Trung Quốc. Có được Hải Vân sẽ nắm quyền kiểm soát cả vùng biển. Một khi dự án khu nghỉ dưỡng của công ty Trung Quốc được xây dựng ở đây thì "mọi bí mật quân sự của vùng 3 Hải quân sẽ khó được giữ vững." Khu liên hợp gang thép Fomosa tại cảng nước sâu Vũng Áng, Hà Tĩnh. Hiện tại, nơi diễn ra dự án này đang trở thành khu vực "nội bất xuất, ngoại bất nhập." Người dân bình thường không thể vào trong khu vực dự án vì chủ đầu tư thuê bảo vệ canh tứ phía. Nhiều người dân được hỏi cho biết, dù ở ngay bên cạnh dự án nhưng việc chủ dự án làm gì bên trong thì không hay biết. Không chỉ người bình thường mà ngay cả phóng viên báo chí chính thống của nhà nước muốn thâm nhập thực tế để viết bài cũng không được. Nên nhớ, số lượng công nhân Trung Quốc ở đây đủ để thành lập 2 "sư đoàn" và không có gì đảm bảo công nhân ở đây không phải là lính bộ binh Trung Quốc trá hình. Trung tâm nhiệt điện Vĩnh Tân ở Bình Thuận. Vùng đất này chính là yết hầu của Nam Trung Bộ, nơi 'núi thò chân ra biển.' Quốc lộ 1A độc đạo đi qua với một bên là núi, một bên là biển. Gọi là yết hầu hay độc đạo bởi không còn con đường nào khác nối liền Nam Bắc ở vùng duyên hải này. Nằm ở vị trí giáp biển, bên cạnh quốc lộ 1A (đồng thời là tuyến độc đạo nối liền Nam – Bắc) và một hải cảng lớn, Trung tâm Nhiệt điện Vĩnh Tân rõ ràng là một khu vực xung yếu về an ninh – quốc phòng. Dự án bauxite ở Tây Nguyên, nóc nhà của Nam Trung Bộ và gần biên giới với Campuchia, là vùng chiến lược về an ninh quốc phòng. Dự án này đã bị sập bẫy kinh tế của Trung Quốc, khi khoản lỗ năm 2013 là 16 triệu USD/năm và đến năm 2014 mức lỗ tương đương là 42.8 triệu USD/năm. Ngoài ra, có hàng ngàn công nhân Trung Quốc tại nơi này, và nguy hiểm hơn hết là nguy cơ đe dọa an ninh môi trường từ hồ chứa bùn đỏ. Nếu có biến, Trung Quốc hoàn toàn có thể phá hồ khiến cho bùn đỏ tràn xuống các vùng dân cư thấp hơn, đe dọa tính mạng người dân trong vùng. Các tỉnh Cao Bằng, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Bình Định, Kon Tum và Bình Dương đã cho 10 doanh nghiệp nước ngoài thuê đất rừng đầu nguồn dài hạn (50 năm) trồng rừng nguyên liệu với tổng diện tích hơn 300 ngàn ha, trong đó doanh nghiệp từ Hongkong, Đài Loan, Trung Quốc chiếm trên 264 ngàn ha, 87% ở các tỉnh xung yếu biên giới. Nguy hiểm hơn hết, tỉnh Quảng Ninh còn đề xuất cho Trung Quốc thuê đất gần cửa khẩu Móng Cái ở biên giới Việt-Trung làm đặc khu kinh tế trong thời hạn 120 năm, với điều kiện doanh nghiệp phía Trung Quốc trả tiền thuê đất chỉ trong một lần. Rõ ràng với đề xuất này, chúng ta không còn có thể phân biệt được giữa các khái niệm "cho thuê đất" và "bán đất". Gần đây, các khu phố Tàu mọc lên khắp nơi trong cả nước, có thể kể đến phố Tàu ở Bắc Ninh, Hạ Long, Hải Phòng, Hà Tĩnh, Bình Dương… Lưu ý là người Hoa ở các nơi này là người Hoa từ Trung Quốc sang Việt Nam, chứ không phải là người Việt gốc Hoa như ở phố Tàu Chợ Lớn, TPHCM. Họ tự do mở cửa hàng, treo biển hiệu hoàn toàn bằng tiếng Hoa, và còn mở cả trung tâm dạy tiếng Hoa cho người Việt. Hai khu vực phố Tàu lớn nhất là ở Hà Tĩnh, nơi có "đại bản doanh" Fomosa của Trung Quốc, và ở Bình Dương, nơi mà người Hoa dự tính xây dựng cả một trung tâm thương mại Đông Đô (Đông Đô Đại Phố), kèm theo đó còn có khách sạn, khu phức hợp thể thao, sân golf, chùa chiền… Khó còn có thể nhận ra đây là khu vực thuộc lãnh thổ Việt Nam. Tại kỳ họp Quốc hội Việt Nam khóa XIII, ông Trương Trọng Nghĩa đã nói đến tình trạng này như sau: "Một trong những nguy cơ mới trong 10 năm qua là sự lệ thuộc vào kinh tế Trung Quốc. Tôi dùng chữ "lệ thuộc" theo nghĩa là muốn dứt ra mà không dứt được, biết không tốt không hay nhưng vẫn phải tiếp tục. Sự lệ thuộc này diễn ra trên nhiều lĩnh vực, về xuất nhập khẩu, nguyên phụ liệu, đấu thầu thi công, năng lượng, viễn thông, khai thác khoáng sản, trang thiết bị công nghệ, nhân công và hàng tiêu dùng… Nếu chúng ta giao quyền và giao tài sản cho những người kém về năng lực và đạo đức, lại tham lam thì người ta chưa mua đã chủ động chào bán, thậm chí buộc người ta hối lộ như là điều kiện để được làm ăn với mình, thì làm sao tránh khỏi lệ thuộc, thậm chí là mất nước." Ông nói thêm: "Một nước có tiềm năng nông nghiệp lớn như Việt Nam mà lại phải nhập khẩu nông sản, nguyên liệu, thực phẩm từ Trung Quốc, kể cả rau quả và trứng gà? Chúng ta có toàn quyền tổ chức đấu thầu, chấm thầu thì tại sao lại để lọt những nhà thầu Trung Quốc kém năng lực, có ngành chiếm đến 80-90% số lượng dự án? Tại sao thương buôn Trung Quốc có thể bằng visa du lịch đến tận miền Tây Nam Bộ thu mua nông sản, lập kho chứa, lũng đoạn giá, phá thị trường? Tại sao buôn lậu hàng chất lượng kém, thực phẩm ô nhiễm vẫn ồ ạt tràn qua biên giới theo đường tiểu ngạch? Tại sao nhà máy của Samsung xuất khẩu 130 triệu điện thoại di động trị giá 23,9 tỷ đôla, sử dụng 45 ngàn lao động mà chỉ sử dụng 70 người Hàn Quốc, mà chúng ta lại để 23 ngàn lao động Trung Quốc, chủ yếu là lao động phổ thông, làm việc khắp nơi từ Hà Tĩnh, Bình Thuận, Lâm Đồng, TPHCM, Bình Dương, Trà Vinh…? Dự án Fomosa có 4268 lao động Trung Quốc trên tổng số 5917 người! Tại sao Fomosa không được cho xây miếu thờ mà vẫn cứ xây, họ thờ ai và sau này có dẹp được hay không? Tại sao nạn buôn người sang Trung Quốc vẫn trầm trọng?" Hiện tại, Việt Nam vẫn còn là một quốc gia độc lập, toàn vẹn lãnh thổ, có quân đội và lực lượng công an, cảnh sát. Nói như vậy có nghĩa là, qua các số liệu và dẫn chứng nêu trên, có thể dễ dàng thấy được nếu không có sự tiếp tay thì thế lực ngoại bang không thể nào chi phối sâu rộng vào lãnh thổ của một quốc gia như vậy. Chắc chắn chính quyền thấy rõ những nguy cơ trên, nhưng một số người sẵn sàng hy sinh lợi ích của nhân dân hòng đạt được mục đích riêng cho một nhóm thiểu số, thậm chí vì quyền lợi cá nhân mà sẵn sàng bán linh hồn của dân tộc Việt Nam cho quỷ dữ, giặc tàu Trung Cộng. Thật sự không khó hiểu khi gần đây Trung Quốc lộng hành ngoài biển Đông, xây đảo nhân tạo và gần nhất là cấm đánh bắt cá trong hải phận của Việt Nam, nhưng Việt Nam không có một động thái nào phản kháng mạnh mẽ. Nguyên nhân rất dễ thấy đó là Trung Quốc hiện tại đã nắm phần lớn những yếu huyệt của Việt Nam trên cả 3 mặt trận: trên biển, trên bộ, và mặt trận văn hóa. Các dự án có bàn tay của Trung Quốc quả thật không khác gì những quả bom nổ chậm hiện diện khắp nơi trên lãnh thổ Việt Nam. Rõ ràng, Trung Quốc đang siết chặt gọng kiềm từ mọi phía. Nguồn: Tổng hợp | ||
Tập Cận Bình không dám đánh bom nợ Posted: 19 Aug 2018 03:43 PM PDT Ngô Nhân Dụng Ông Vladimir Putin đã thử đánh Mỹ bằng thứ bom này vào đầu năm nay. Trong Tháng Tư, 2018, Nga đã bán 84% số công trái của chính phủ Mỹ (US Treasury bonds), trị giá $81 tỷ. Tháng Ba, Nga còn làm chủ $96 tỷ công trái Mỹ, đến Tháng Năm chỉ còn dưới $15 tỷ. Khi có người bán một thứ gì, bán rất nhiều và trong một thời gian ngắn, thì "món hàng" đó mất giá trên thị trường ngay lập tức. Giá US Treasury xuống, nghĩa là mức lời, gọi là suất lời (yield), của công trái Mỹ tăng lên. Thí dụ, một công trái mang lãi suất cố định 3%, trước đây bán nguyên giá $1,000, mỗi năm trả $30 thì suất lời, yield cũng là 3%. Nhưng nếu công trái đó mất giá, chỉ còn $960, thì suất lời tăng lên. Chính phủ Mỹ vẫn trả $30, không hơn, nhưng những người chủ mới của công trái lãnh $30 trên số vốn $960 thì suất lời thành 3.75% (30/960). Chính phủ Nga quyết định tống khứ một số lớn công trái Mỹ ra thị trường cốt để trả đũa Mỹ đánh thuế trên thép và nhôm nhập cảng từ Nga. Sau khi Nga đánh trả đòn, lợi suất của các công trái 10 năm của Mỹ đã tăng vọt lên trên 3%, lần đầu tiên cao như vậy kể từ năm 2014. Nếu suất lời tăng rồi cứ tiếp tục cao như thế, thì lần sau chính phủ Mỹ đi vay sẽ phải trả lời lãi cao hơn trước. Nhưng trong Tháng Năm vừa qua, suất lời, yield, trên công trái 10 năm của Mỹ lại xuống ngay dưới 3%, như cũ. Vì vẫn có rất nhiều người muốn mua công trái Mỹ. Con số $81 tỷ Nga bán ra, so với số công trái của Mỹ trị giá gần $21,000 tỷ, cũng như muối bỏ biển, không gây ảnh hưởng nào đáng kể. Nhưng ông Tập Cận Bình nắm trong tay một số công trái Mỹ "khổng lồ," hơn ông Putin cả chục lần. Trái bom của ông Putin chỉ là bom thường, Cộng Sản Trung Quốc có thể dùng đến bom nguyên tử. Nếu ông Tập Cận Bình cũng đánh như ông Putin, thì kinh tế Mỹ sẽ bị ảnh hưởng nặng. Trên báo, đài của Trung Cộng, đã có người kêu gọi hãy dùng thứ bom này để đe dọa ông Donald Trump. Ông Tập Cận Bình chỉ cần "tuýt" ra một lời tuyên bố sẽ bán rất nhiều công trái Mỹ mà nước Tàu đang giữ, chắc chính phủ Mỹ sẽ phải ngưng cuộc chiến tăng thuế quan ngay, ngồi công bàn chuyện đình chiến! Nếu ông Tập Cận Bình muốn dùng chiến thuật này, thì bây giờ là lúc thuận lợi nhất. Bởi vì chính phủ Mỹ đang bắt đầu đi vay ngày càng nhiều vì số khiếm hụt ngân sách đã tăng sau khi quốc hội làm luật cắt giảm thuế cho các công ty. Chính phủ thiếu tiền thì đi vay bằng cách bán công trái. Ngày 30 Tháng Mười Hai, 2016, tổng số nợ nần của chính phủ Mỹ còn dưới $20,000 tỷ. Tháng Tư, 2018, số nợ đã lên tới $21,000 tỷ, và sẽ còn tăng nhanh hơn. Không ai sắp đi vay nợ lại muốn lãi suất lên cao, chính phủ Mỹ cũng vậy. Cho nên, nếu Trung Cộng tung ra thị trường một số lớn công trái Mỹ, chắc ông Trump sẽ chịu lùi một bước vì một mũi tên sẽ bắn trúng hai mục tiêu! Thứ nhất là đẩy lãi suất ở Mỹ lên cao. Nếu Trung Cộng tuyên bố sẽ bán mỗi tháng $100 tỷ công trái Mỹ, liên tục trong mươi tháng, thì thị trường sẽ xáo trộn khó lường. Suất lời trên công trái Mỹ ảnh hưởng trên các thứ lãi suất khác, tất cả sẽ theo nhau tăng lên. Các công ty đi vay sẽ tốn kém hơn có thể phải hoãn phát triển; người vay tiền mua nhà cũng tốn hơn, thị trường địa ốc sẽ xuống. Người tiêu thụ sẽ mất tin tưởng, không chi tiền như trước, cả nền kinh tế bị ảnh hưởng. Một hậu quả thứ khác là giá đồng đô la Mỹ sẽ lên. Khi lãi suất ở Mỹ tăng, nhiều người sẽ đem tiền tới cho vay, và họ phải mua đô la Mỹ. Đồng đô la lên giá sẽ khiến hàng hóa Mỹ bán ra nước ngoài tăng giá khi được bán bằng tiền bản xứ. Các công ty xuất cảng ở Mỹ sẽ phải giảm hoạt động. Các nhà đầu tư thấy lãi suất lên sẽ bán bớt cổ phiếu để mua trái phiếu, làm thị trường chứng khoán tụt xuống. Kinh tế Mỹ sẽ lâm nạn, lúc đó đồng đô la sẽ xuống giá. Trung Cộng có khả năng gây ra những biến cố trên, vì đang làm chủ các công trái Mỹ trị giá $1,200 tỷ, là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ. Ngoài ra họ cũng mua khoảng $100 tỷ khác nhưng để nhờ ở nước Bỉ. Họ cũng làm chủ các trái phiếu một số cơ quan tín dụng Mỹ được chính phủ bảo trợ, như Fannie Mae, trị giá khoảng $200 tỷ nữa. Tổng cộng, Bắc Kinh có trong tay trái bom $1,500 tỷ giấy nợ của nước Mỹ. So với số nợ khổng lồ mà chính phủ Mỹ đang vay thì con số $1,200 tỷ cũng chỉ chiếm khoảng 6%. Thực ra, những chủ nợ quan trọng nhất của chính phủ Mỹ, 70% số tiền vay là do dân Mỹ cung cấp, chỉ có 30% là chủ nợ nước ngoài. Đó là một ưu thế của Mỹ cũng như Nhật Bản, vì hầu hết các chủ nợ là người trong nước. Các công ty bảo hiểm, các quỹ hưu bổng lúc nào cũng cần mang tiền đầu tư vào chỗ an toàn. Mà trên thế giới không có cách đầu tư nào an toàn bằng cho nhà nước Mỹ vay; biết chắc rằng thế nào cũng được trả lãi và vốn. Nhưng một điều làm cho Tòa Bạch Ốc không lo bị ông Tập Cận Bình tấn công bằng bom nợ, là vì kẻ ném bom cũng có thể chết vì bom. Trước hết, khi bán hàng trăm tỷ đô la công trái Mỹ khiến giá các công trái đó tụt xuống thì chính người bán đang tự gây lỗ lã cho chính mình, mua lúc đắt bán lúc rẻ. Khi bán công trái Mỹ, Bắc Kinh sẽ phải đầu tư vào chỗ khác. Chỗ nào khác? Mua công trái những nước khác hay mua vàng đều khiến các món đó tăng giá! Nhưng riêng hành động bán và mua hàng ngàn tỷ đô la này cũng đủ làm xáo trộn các thị trường và cả nền kinh tế thế giới! Khi kinh tế toàn cầu xuống thì tất cả đều suy thoái, nhưng lâm nguy nặng nề nhất là những nước tùy thuộc vào việc xuất cảng. Trung Quốc đứng đầu trong đám này. Nếu kinh tế Mỹ bị ảnh hưởng vì quả bom nợ Trung Cộng tung ra, thì ngân hàng trung ương Mỹ sẽ phải đối phó. Bắc Kinh muốn bán bao nhiêu công trái Mỹ, Quỹ Dự Trữ Liên Bang sẽ in tiền ra mua không mệt, vì chính Federal Reserve vẫn là chủ nợ lớn nhất của chính phủ Mỹ! Để chống lại tình trạng lãi suất ở Mỹ tăng, Quỹ Dự Trữ Liên Bang, Federal Reserve, sẽ thay đổi chính sách tiền tệ nhằm giảm lãi suất. và họ có khả năng làm việc đó. Một hậu quả là giá trị đồng đô la Mỹ sẽ giảm cùng với lãi suất ở Mỹ. Hậu quả là giá trị đồng nguyên, tiền của Trung Cộng sẽ tăng lên so với đô la. Mà đó là điều mà các chính quyền ở Bắc Kinh đều muốn tránh. Bao năm nay, họ bán hàng cho Mỹ, thu đô la về rồi lại đem cho chính phủ Mỹ vay, dùng cách đó để giảm hối suất đồng tiền của họ. Bởi vì mỗi lần mua công trái chính phủ Mỹ lại cần đổi đồng nguyên sang đô la để mua, mà mua nhiều đô la thì đô la phải giá! Một điều Bắc Kinh không thể nào chỉ huy được, là trong giao dịch thương mại quốc tế hiện nay người mua kẻ bán vẫn thanh toán với nhau bằng đô la Mỹ! Giá trị đồng nguyên lên tức là giá bán hàng xuất cảng của Trung Quốc sẽ tăng khi tính ra đô la, sẽ khó bán hơn. Nếu muốn vượt qua rào cản này, Trung Cộng có thể nhận các nước thanh toán bằng đồng nguyên của mình. Họ sẽ phải đi mua đồng nguyên để trả hóa đơn. Nhưng như thế thì giá trị đồng nguyên càng tăng thêm nữa, như một cầu thang xoáy chôn ốc lên cao! Cuối cùng, nếu Bắc Kinh khởi động việc bán công trái chính phủ Mỹ hàng loạt thì không phải chỉ gây hại cho kinh tế Mỹ. Kinh tế nước Tàu cũng xính vính. Cuộc chiến tranh thuế quan biến thành chiến tranh tiền tệ, hai bên lâm chiến bước vào tình cảnh "chắc chắn tiêu diệt lẫn nhau" (mutually assured destruction) không bên nào thoát được. Cho nên, ông Tập Cận Bình sẽ không dám đánh trả đũa bằng trái bom công trái Mỹ! Năm 2012, Bộ Quốc Phòng Mỹ đã làm cuộc nghiên cứu về mối đe dọa trên an ninh quốc gia khi Trung Cộng mua quá nhiều công trái Mỹ. Nếu thấy có vấn đề, chắc chắn chính phủ Mỹ có quyền hạn chế không bán nữa. Nhưng cuộc nghiên cứu đi tới kết luận rằng Trung Cộng sẽ không thể nào đem các công trái Mỹ ra bán hàng loạt mà không tác hại cho chính mình. (Ngô Nhân Dụng) | ||
Posted: 19 Aug 2018 03:44 PM PDT PHẢI CHĂNG TRUNG QUỐC CŨNG KHÔNG HỌC ĐƯỢC CHỮ NGỜ? Cách đây 5 năm thì ai dám nghĩ tác giả của cuốn sách Death by China lại có thể làm cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Mỹ và có tiếng nói quan trọng tại Tòa Bạch Ốc. Nhưng điều không ngờ lại xảy ra và tác giả của cuốn sách "chết bởi Trung Quốc" đã trở thành cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump. Đây là tình huống mà giới lãnh đạo cộng sản Trung Quốc đã không ngờ tới và chắc chắn sẽ còn phải đau đầu rất nhiều với tác giả của cuốn sách Death by China. Đọc cuốn sách Death by China thì thấy Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro đã vạch trần tất cả những mối nguy đến từ chính sách kinh tế của Trung Quốc. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì Trung Quốc đã đưa ra chính sách gian lận thương mại, ăn cắp công nghệ, làm hàng giả, hàng kém chất lượng để phá hủy toàn bộ hệ thống kinh tế chuẩn mực của các nước tư bản giầu có trước đây như Mỹ và Châu Âu. Trung Quốc đã cố tình làm hàng giả, hàng kém chất lượng và bán phá giá để cho nhiều nhà máy, nhiều công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản. Khi các nhà máy, các công ty của Mỹ và Châu Âu bị phá sản thì người dân không có việc làm và người dân không có việc làm thì không có tiền lương mà không có tiền lương thì phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Đối với những nước giầu có như Mỹ và Châu Âu thì Trung Quốc đưa hàng giả, hàng kém chất lượng vào để giết chết các nhà máy, các công ty. Còn đối với các nước nghèo đói như Campuchia, Việt Nam, Lào và Châu Phi thì Trung Quốc đã đưa cả hàng độc hại để không chỉ giết chết các nhà máy, các công ty mà giết chết luôn cả người dân. Theo Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro thì nếu Mỹ và Châu Âu không có chính sách ngăn chặn Trung Quốc thì chỉ cần trong vòng 10 năm đến 20 năm nữa là Trung Quốc sẽ chi phối toàn bộ hệ thống kinh tế toàn cầu. Khi Trung Quốc đã chi phối được kinh tế toàn cầu thì dĩ nhiên là Trung Quốc sẽ chi phối về chính trị và đi xâm chiếm lãnh thổ của các quốc gia khác. Điều này thì ai cũng có thể nhìn thấy qua các chính sách của Trung Quốc đối với các nước nhỏ và nghèo trong khu vực như Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanmar, Philippines, và Malaysia. Giới chính trị gia salon của Mỹ và Châu Âu đã không nhận ra được mối nguy từ Trung Quốc hoặc có nhận ra nhưng đã cảm thấy bất lực nên đành phải nín nhịn Trung Quốc để được yên thân trong nhung lựa của cung điện. Dưới thời Tổng Thống Barack Obama thì tỷ lệ thất nghiệp của người dân Mỹ ngày càng gia tăng mà không có cách giải quyết, ngân sách quốc gia thì thâm hụt và phải vay mượn tứ tung. Có 8 năm cầm quyền mà tiêu tiền ngân sách quốc gia nhiều hơn cả mấy đời Tổng Thống Mỹ cộng lại. Chính sách của Hillary Clinton thì chẳng khác gì Barack Obama nhưng vẫn có người đi ủng hộ Hillary Clinton và chống Trump thì quả là kém về chính trị và vô trách nhiệm với nước Mỹ, với Châu Âu và với thế giới. Tổng Thống Trump là một nhà kinh tế, là một tỷ phú đã từng điều hành hàng ngàn công nhân nên ông hiểu được chính sách kinh tế của Trung Quốc. Từ sự thấu hiểu mà Tổng Thống Trump đã quyết định chọn người có điểm chung là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro để làm cố vấn kinh tế và đưa ra các biện pháp ngăn chặn Trung Quốc. Thực sự là Mỹ đã quá muộn và ngăn chặn được kinh tế Trung Quốc là một bài toán vô cùng khó. Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế đứng thứ hai trên thế giới, đã thâu tóm và lũng đoạn được chính trị của nhiều quốc gia. Trong khi hàng hóa Made in China thì đã tràn ngập thị trường Mỹ và Châu Âu. Người dân thì vì không có việc làm và không có tiền nên vẫn phải dùng hàng giả, hàng kém chất lượng của Trung Quốc. Mỹ và Châu Âu đã quá muộn để ngăn chặn Trung Quốc nhưng muộn mà còn có Tổng Thống Mỹ dám đứng ra ngăn chặn thì thế giới vẫn còn hy vọng. Cuộc đấu giữa Mỹ và Trung Quốc là một cuộc đấu đầy khó khăn và khốc liệt. Nhưng với kinh nghiệm của thương trường, với lòng can đảm và với một quyết tâm cao thì Tổng Thống Trump đang làm cho thế giới có nhiều hy vọng vào một chiến thắng trước Trung Quốc. Nếu cuộc đấu với Trung Quốc mà thành công thì lịch sử nhân loại sẽ ghi ơn Tổng Thống Trump và người cố vấn kinh tế cho Tổng Thống Trump và cũng là người đã có công viết cuốn sách Death by China để vạch trần chính sách gian manh của Trung Quốc là Tiến sỹ kinh tế Peter Navarro. | ||
KỶ NIỆM 50 NĂM BIÊN DỊCH VÀ XUẤT BẢN THƠ VĂN LÝ TRẦN Posted: 19 Aug 2018 03:22 PM PDT Tôi tham gia biên dịch "Thơ Văn Lý Trần"Trần Thị Băng Thanh Cuối năm 1968, tốt nghiệp Lớp Đại học Hán học, 5/6 sinh viên ở lại Viện Văn học, được đưa về Tổ văn học Cổ cận đại. Tôi (Trần Thị Băng Thanh), Hoàng Lê và Ngô Thế Long ở Nhóm Cổ đại, cùng với 3 cán bộ của Viện là Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Văn Phát được giao "làm" Thơ văn Lý Trần (TVLT), do Nguyễn Huệ Chi làm Trưởng nhóm. Sau một thời gian, hình như gần 2 năm, khảo sát đối chiếu với sách vở của Thư viện, cảm thấy không đảm nhiệm nổi tiến độ công việc, Nhóm trưởng Huệ Chi đề nghị Gs Đặng Thai Mai cho Nhóm Cận đại do Trần Nghĩa làm Nhóm trưởng chia sẻ bớt công việc. Vì thế TVLT có thêm Nhóm Lý Trần II. Nhóm II gồm Trần Nghĩa (Nhóm trưởng), Nguyễn Đức Vĩ, Trần Lê Sáng, Đào Thái Tôn, Phạm Đức Duật. Ít lâu sau Nhóm I được bổ sung Phạm Tú Châu cùng tốt nghiệp ĐH Hán học, từ Tổ khác chuyển sang (khi Nguyễn Văn Phát, Ngô Thế Long chuyển đi). Chúng tôi bắt tay vào công việc, mỗi người được giao bản thảo một số tác giả, do hai bác Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình thực hiện từ trước. Nhiệm vụ là tiếp tục việc các bác đã làm, đối chiếu lại để chỉnh sửa và sưu tầm, khảo chứng, biên dịch những tài liệu sưu tầm mới… hình thành bộ Thơ văn của thời đại Lý Trần. Bản thảo đã có từ trước được chia ra, phần ai nấy lo. Công việc chủ yếu là: Nhóm trưởng có trách nhiệm điều hành công việc, duyệt bản thảo của các thành viên trong Nhóm để hoàn chỉnh từng tập bản thảo bộ sách. Riêng Nhóm trưởng Nhóm I Nguyễn Huệ Chi phải viết phần "Khảo luận", xác định khái niệm, thời gian, đối tượng của TVLT, khái quát quá trình sưu tập từ các thế kỷ trước, các vấn đề văn bản học trong từng thời kỳ lịch sử… ngoài ra còn đề xuất các loại việc, phần việc, phương pháp làm việc, các quy chuẩn…, định hướng cho công việc. (Xin xem Khảo luận đăng đầu Tập I TVLT). Bản thân tôi cũng như các thành viên khác của hai Nhóm, theo các tiêu chí và quy chuẩn, phương pháp đề ra trong "Khảo luận", phải làm các công việc sau: - Mở rộng nguồn tài liệu để tìm kiếm thêm tác phẩm; thu thập thêm những tác phẩm theo tiêu chí do Nhóm đã quy định, tìm thêm ở các sách mới phát hiện, ở sách nước ngoài, các phát hiện của các học giả từ trước 1945, các học giả ngoài nước, các nhà nghiên cứu Phật giáo, khảo cổ, dân gian, kể cả kho lưu trữ dưới dạng microfilm… và đặc biệt là tham gia công tác điền dã, thu thập thêm hoặc đính ngoa những chỗ các sách Thi văn tập thời trước có thể chép nhầm, hoặc đã chỉnh sửa. - Tập trung vào công việc khảo dị hiệu đính, đối chiếu thêm các dị bản mà bản thảo của các bác chưa làm. - Dịch những tác phẩm chưa dịch. - Rà soát lại bản thảo của hai bác Nguyễn Đức Vân và Đào Phương Bình đã dịch chú, tùy theo hiện trạng cụ thể của từng tác phẩm mà xử lý. Vì TVLT không còn bản gốc nên công việc xác định văn bản hết sức quan trọng. Mỗi tác phẩm, chúng tôi đều phải xác định được nguồn gốc văn bản, nếu còn nghi vấn cũng phải nêu rõ, nếu quả có sự nhầm lẫn thì đành phải bỏ ra. Vài ví dụ cụ thể, ví như bài thơ Tức sự được sách cổ chép là của Huyền Quang, những người đọc thơ văn Lý Trần ai cũng thích, sau nhà nghiên cứu Lê Mạnh Thát phát hiện là nhầm, nên đành phải đưa ra (mặc dù bản thân tôi cũng rất tiếc); bài thơ khẩu khí của Lý Thái Tổ, do phát hiện của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch (lúc ấy ông đang ở Viện Văn học) cũng phải rút ra, mặc dù bài thơ dịch của nhà thơ Nam Trân rất hay; bài liên ngâm giữa Lý Giác và Pháp Thuận, nhiều thơ văn đối đáp tương truyền là của Mạc Đĩnh Chi trong lần đi sứ nhà Nguyên cũng chỉ đưa xuống giai thoại; riêng Giới Hiên thi tập của Nguyễn Trung Ngạn được sưu tập từ trước thế kỷ XIX, là tập thơ của một tác giả lớn, ban đầu Ngô Thế Long phát hiện ra một số bài trong bản chép tay hiện có không thấy trong các tuyển tập của thế kỷ XV. Sau Nguyễn Huệ Chi khảo sát kỹ, tìm ra một số lớn bài bị lẫn với các tác giả có tên tuổi của thế kỷ XVIII như Nguyễn Tông Khuê (Quai), Nguyễn Kiều…, nên chúng tôi cũng đành gác lại… Sau gần 7 năm cặm cụi mà thời gian hầu như dồn hết cho TVLT, Tập I do nhóm chúng tôi, gồm Nguyễn Huệ Chi (Nhóm trưởng), Đỗ Văn Hỷ, Trần Thị Băng Thanh, Phạm Tú Châu, Hoàng Lê (ban đầu có Ngô Thế Long và Nguyễn Văn Phát, sau cả hai chuyển đi sớm, riêng Ngô Thế Long có 3 tác phẩm, trong đó có 2 văn bia dịch chung với tôi trong tập này), đã hoàn thành và được xuất bản vào năm 1977. Những năm đó miền Bắc không còn nhà in nào có chữ nho, NXB đã đề xuất chỉ in phần tiếng Việt, nhưng Huệ Chi không đồng ý, anh chạy vạy, tìm được cách xin chữ Hán ở báo Tân Việt Hoa, tuy vậy họ chỉ có chữ Trung văn giản thể, đành chấp nhận. Lúc này Nhóm I chỉ còn 4 người, anh Hỷ không làm việc này được, nên mọi việc Nhóm trưởng Huệ Chi phải lo; Băng Thanh và Tú Châu tham gia đọc bông và vì công nhân không biết chữ Hán nên phải đến tận nhà in Thống Nhất giúp họ xếp chữ Hán vào từng khuôn chữ Việt đã được sắp chữ (việc này rất vất vả, sau khi Huệ Chi đã thuê xích lô chở các khuôn chữ chì từ báo Tân Việt Hoa về nhà in, chúng tôi cùng phải đọc ngược đối chiếu với bản thảo, chữa chỗ sai, tự cắm chữ vào, in thử lần 1, lần 2, có khi lần 3, được rồi mới ký bông). Tôi không nhớ rõ khâu bông can này mất bao nhiêu thời gian, chỉ cảm giác là rất lâu, khi sách được in ra, không thật như ý, cũng đành chịu, có chữ Hán in kèm là may rồi. Tập III thì đúng 10 năm, các bạn Nhóm II đem vào Sài Gòn, nhờ được các cụ chữ đẹp viết chữ Hán nên tập sách in rất chỉn chu, và được ra mắt năm 1978. Mười năm sau, cũng theo kinh nghiệm của Tập III, TVLT Tập II Quyển thượng đưa vào Sài Gòn, nhưng lúc đó không tìm được các vị viết chữ nho nữa. Chúng tôi rất lúng túng, may nhờ nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân thỉnh được Thượng tọa Thích Đức Nghiệp hoan hỷ công đức viết cho chữ Hán và cả chữ Nôm toàn bộ, sách mới in được, phải 5 tháng mới xong. Nhớ lại, tôi nghĩ rằng nếu ngày ấy không có công đức của Thượng tọa Thích Đức Nghiệp và sự giúp đỡ tận tình của ông Nguyễn Quảng Tuân, cùng với sự nhiệt tình của ông Lý Thái Thuận là chủ nhà in nơi chúng tôi in sách, thì TVLT Tập II Quyển thượng chưa chắc đã có thể in được trong thời gian cả đất nước khó khăn như thế… Kể ra việc bếp núc thì mỗi công trình một vẻ với những khó khăn và thuận lợi riêng, chẳng thể so sánh và chưa chắc TVLT Tập II Quyển thượng đã là khó khăn nhất. Nhưng với tôi thì công việc đó cũng "quá tải". Một chuyện nữa mà tôi muốn được chia sẻ là vấn đề dịch. Khi về Nhóm TVLT chúng tôi được Viện giao nhiệm vụ vừa rà soát tu chỉnh bản thảo đã có, vừa tiếp tụcsưu tập, biên dịch, khảo chứng và chú thích để có một bộ thơ văn hoàn chỉnh. Do vậy diện sưu tầm mới mở rộng và thời gian phải ngược lên, bắt đầu từ triều đại giành độc lập đầu tiên – Ngô Quyền. Tác phẩm thì bao gồm cả sấm ký, ngữ lục, tuyên ngôn (là những thể loại lần đầu được chính thức nhìn nhận là sáng tác văn học), được khôi phục từ sử sách và cả các tác phẩm tôn giáo (như quan niệm đã đề ra ở phần "Khảo luận" mà Nhóm trưởng trình bày mấy buổi trước khi viết thành văn, kể cả vấn đề nội hàm và ngoại diên của thời đại văn học được gọi là "Lý Trần", hai nhóm chúng tôi có thảo luận và nhanh chóng nhất trí). Còn về việc dịch, chúng tôi theo quy định: - Dưới mỗi bài văn xuôi, đề tên người dịch; - Dưới mỗi tác phẩm thơ, chỉ đề tên người dịch thơ (Quy định này thời ấy khá phổ biến, như thấy ở các bộ Hợp tuyển thơ văn nhiều tập, hoặc bộ Hoàng Việt thi văn tuyển…, do NXB Văn hóa cho in trong những năm cuối 50 và đầu 60, cho nên nhiều người dù dịch nghĩa, chú, khảo dị, đính ngoa rất nhiều bài vẫn không một lần có tên dưới tác phẩm dịch). - Tùy theo sự tham gia sửa chỉnh, nhuận sắc vào bản dịch đến đâu mà đề tên theo các mức: để nguyên tên người dịch; thêm chữ "theo" trước tên người dịch; cùng đứng tên (sau hoặc trước); và cuối cùng, nếu thấy bài dịch phải chỉnh sửa nhiều, bản thảo đã có chỉ dùng như tài liệu tham khảo, thì hoặc tự dịch lại và ghi tên của mình, hoặc mời người khác dịch (trong anh chị em hai nhóm hoặc ở ngoài), thay bản dịch cũ. Ở Tập I những bài đứng tên đồng dịch giả, hoặc mời người ngoài dịch thêm không nhiều lắm. Chúng tôi đã bổ sung non một nửa, từ những tài liệu sưu tập, khai thác mới, ví như các văn bia sưu tầm ở các cuộc điền dã (8 bia), các tài liệu dưới dạng ngữ lục nhưng thực sự là một tác phẩm triết học, văn học, sử học (ví nhưTham đồ hiển quyết của Thiền sư Viên Chiếu, chính là tác phẩm giảng về thiền học, rất uyên thâm về triết thuyết Thiền và rất giàu chất văn chương; Thư gửi Hùng Bản; lời tranh cãi của Lê Văn Thịnh ở Hội nghị biên giới Vĩnh Bình; Biểu đòi đất hai động Vật Dương Vật Ác – những tác phẩm này có thể xem như mở đầu dòng văn chương ngoại giao của nước ta; Lộ bố đánh vào đất Tống…), thu thập từ các loại sách sử, sách tôn giáo, các ghi chép ở sách nước ngoài. Nhưng đến Tập II, nguồn tài liệu mới, tài liệu tham khảo rộng hơn, cộng tác viên nhiều hơn nên chúng tôi, ngoài ngót một nửa số tác phẩm mới tìm thêm, đối với bản dịch, nhất là dịch thơ, có nhiều lựa chọn hơn, và vì vậy danh tính người dịch cũng đông đảo hơn. Tên của các thành viên trong nhóm hiện diện trong sách, có khi còn ít hơn cả cộng tác viên. Xin đơn cử một thí dụ, trường hợp tác giả Trần Nhân Tông mà tôi chịu trách nhiệm "biên soạn" (Nhiệm vụ là: sưu tầm tác phẩm mới; viết tiểu sử; dịch và hoàn chỉnh các bài dịch nghĩa; khảo dị hiệu đính và chú thích toàn bộ tác phẩm của Trần Nhân Tông; đặt tên bài, trường hợp chưa có tên). Nhà vua có 36 tác phẩm, thì danh tính người dịch hiện diện dưới các bài dịch như sau: Ngô Tất Tố 5 bài, Trần Lê Văn 14 bài, Đào Phương Bình 4 bài, Huệ Chi 5 bài, Đỗ Văn Hỷ 3 bài, Trần Trọng Kim, Nhóm Lê Quý Đôn, Khương Hữu Dụng, mỗi người 1 bài, Băng Thanh 3 bài. Chọn lại những bài đã có từ trên sách báo trước 1945 là cách làm thống nhất của hai nhóm, Tập I và Tập III đều đã theo như thế, nhưng có thể Trần Nhân Tông là trường hợp khó dịch (và cũng mong có những bài dịch thật đạt) nên tôi chưa chọn được đủ bài. Bản thảo không hoàn thành, Viện trưởng Hoàng Trung Thông phải mời giúp nhà thơ Trần Lê Văn "cứu trợ". Tôi nhớ một ví dụ, như bài Xuân hiểu (in ở Tập II Quyển thượng, trang 453-454). Bài thơ chỉ có 20 chữ, và cũng đã có vài bản dịch, nhưng cân nhắc mãi, tôi vẫn thấy được câu này thì mất câu kia, và cuối cùng chọn bài dịch của Trần Lê Văn, lý do là (như tôi cảm nhận) ông đã đưa vào bài dịch được vẻ ngỡ ngàng của tác giả trước cảnh xuân chợt về, và không khí rộn ràng của một sớm xuân… Một số bài khác cũng khó dịch như bài biếu bánh sứ Tàu Trương Hiển Khanh nhân ngày 3 tháng Ba, bài Đề chùa làng hương Cổ Châu, bài Tiễn sứ Tàu Lý Trọng Tân và Tiêu Phương Nhai, Trần Lê Văn đều dịch rất có hồn. Bây giờ đọc lại sách tôi vẫn thấy những bài đã chọn, dù của người trong nhóm như Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Huệ Chi, hay các vị tiền bối Ngô Tất Tố, Khương Hữu Dụng, Đào Phương Bình, vẫn là những bài dịch hay; tôi tự nghĩ những bài thơ dịch mình đã chọn giữ lại là chính xác. Rất nhiều trường hợp, khi quá băn khoăn hay tiếc rẻ, nhóm "cãi nhau" mà vẫn không thể nhất trí, chúng tôi cắt dán "các bản dịch khác" kèm vào bản thảo đánh máy mang đến để hai Giáo sư duyệt Đặng Thai Mai và Cao Xuân Huy quyết định (tôi và hình như có cả chị Châu đảm nhiệm việc đưa đi duyệt này). Và các ông cũng đã quyết định rất thẳng thắn. Thực ra, đối với những sách cổ, như TVLT, thì bản dịch vẫn là khâu cuối cùng quan trọng nhất, nó mang dấu ấn phong cách người dịch và quan điểm người biên soạn (cũng có thể phụ thuộc ít nhiều vào thời điểm biên soạn). Dịch cũng là một nghệ thuật, dịch đúng bắt buộc phải am hiểu chữ nghĩa, có kiến thức văn hóa, có năng lực cảm thụ…, nhưng nhiều khi cũng có cả yếu tố ngẫu nhiên, "cờ ngoài bài trong". Chính vì vậy, trong công trình TVLT những bài dịch thơ của bác Nam Trân, chúng tôi không thay thế bài nào, nhưng cũng có bài đã đứng tên chung với cụ Lê Thước hoặc bác Đào Phương Bình (do chính nhà thơ sửa bản dịch cũ và đề thêm tên mình), hoặc nữa đứng tên chung với Phạm Tú Châu, hay được in kèm thêm một "Bản dịch khác" (có lần là bản dịch của tôi)… Nếu cho rằng sản phẩm của mình là tuyệt đối đúng, là hay nhất, hoàn chỉnh nhất thì không phải, nhưng trong khi thực thi nhiệm vụ thì mỗi người phải làm việc và dám chịu trách nhiệm về kết quả công việc mình làm. Chọn đúng hay chọn sai, sửa đúng hay sửa sai, thậm chí việc "lợn lành chữa thành lợn què" đều có thể xảy ra. May sao 3 tập TVLT hai nhóm chúng tôi đã hoàn thành cũng không có gì sai sót lớn, lâu nay đã được trong giới chấp nhận và tin cậy. Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy có lẽ đây là một công trình mà tính cộng đồng và kế thừa cao nhất so với các công trình cùng loại. Về thời gian có thể tính đến thế kỷ, từ những bài đăng rải rác trên Nam phong, các công trình Văn học đời Lý, Văn học đời Trần của Ngô tất Tố, Khóa hư lục của Thiều Chửu, các công trình nghiên cứu của nhà thư mục học Trần Văn Giáp, của các nhà văn học sử Nguyễn Đổng Chi, Đào Duy Anh, Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, các nhóm văn học sử ở các trường Tổng hợp, Sư phạm, những học giả ở xa là Hoàng Xuân Hãn, Nguyễn Lang, Nguyễn Đăng Thục, Trúc Thiên, mà khá lâu sau năm 1975 chúng tôi mới tiếp cận được, tiếp đó là bản dịch của các vị túc nho Lê Thước, Nguyễn Lợi, Đồ Nam Tử, Đoàn Thăng, … rồi đến hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình là bước làm tập trung đầu tiên của Viện trong mấy năm nửa đầu thập kỷ 60 thế kỷ trước, và đến hai nhóm chúng tôi, bây giờ đã bổ sung thêm thế hệ Đặng Thị Hảo, Phạm Ngọc Lan, rồi Phạm Văn Ánh, Quách Thu Hiền, và những ai nữa mà tôi đã về hưu không biết rõ, đến nay đã là đầu thế kỷ XXI. Tính về nhân sự, riêng "nhóm viên" các thế hệ cũng đã xấp xỉ hai chục người. Thực ra tính vấn đề của một công trình khoa học là không giới hạn cả về không gian và thời gian. Mà TVLT không chỉ là một công trình khoa học, nó còn là một bộ phận quan trọng của di sản văn hóa nước nhà, là chứng tích của một trong không nhiều thời kỳ rực rỡ nhất của đất nước và dân tộc còn giữ lại được sau những mất mát lớn lao. Bộ TVLT của Viện Văn học có được thực ra không thể là công lao riêng của Viện Văn học. Như tôi nghĩ, đóng góp chính của Nhóm TVLT của Viện là đã làm được một việc "tập đại thành" những kết quả của nhiều thế hệ dịch giả (trong đó có việc dịch bổ sung của chúng tôi), và do đó phác họa được diện mạo thơ văn, thể hiện đời sống văn hóa, tư tưởng của đất nước, dân tộc 6 triều đại thời kỳ đầu quốc gia độc lập. Đó là một thành quả rất đáng trân trọng, giữ gìn. Riêng giai đoạn Viện Văn học cũng đã có thể phân làm hai thời kỳ. Thời kỳ đầu do hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình đảm nhiệm. Hai bác đã dịch chú xong nhiều tác giả, tác phẩm (hiện có tên dưới các bài dịch trong bộ sách). Gần đây tôi nghe nói có bức hình chụp chữ ký của Pgs Nguyễn Văn Hoàn, xác nhận con số 911 trang bản thảo TVLT do hai bác giao lại. Không biết như thế đã đầy đủ chưa, nhưng đó hẳn là thành quả của thời kỳ đầu này mà hai bác đã hoàn thành. Hai bác là bậc túc nho nên bản dịch của các bác nói chung đạt được nhiều tin cậy. Nhưng Gs Đặng Thai Mai cho rằng có nền móng bản thảo của hai bác, vẫn phải chỉn chu hơn nữa và sưu tầm rộng hơn nữa. Do vậy hai nhóm chúng tôi chia nhau làm tiếp, và đối với bản thảo đã có đều cố gắng gia công vào các phầnxác định xuất xứ, khảo dị, hiệu đính, dịch nghĩa, lựa chọn các bài dịch thơ bổ sung, thay thế, như tôi đã nói ở trường hợp Trần Nhân Tông. Ngày nay, nếu đọc lại TVLT cũng có thể thấy được cung cách làm việc ấy. Chẳng hạn: ở những chỗ dịch thơ để trống (nhiều bài, như còn thấy ở Tập III), hoặc thơ dịch chưa thật đạt thì chọn lại thơ dịch của Ngô Tất Tố, của các dịch giả trên Nam phong, Đuốc tuệ và các sách khác, hoặc mời cộng tác viên dịch, và tự dịch. Ví như: hai tác giả Vương Vụ Thành và Nguyễn Ức ở Tập III do Trần Nghĩa (Tuấn Nghi) và Hoàng Lê biên soạn, chỉ giữ lại 1 bài thơ dịch của Đào Phương Bình. Ở Tập II Quyển thượng, các tác giả Phạm Ngộ, Phạm Mại do Tuấn Nghi biên soạn, Trần Quang Triều, do Phạm Tú Châu biên soạn đã không giữ lại 1 bài thơ dịch nào của bản thảo đợt I. Trần Tung do Nguyễn Huệ Chi biên soạn (các nhà sưu tập trước đều tưởng nhầm là Trần Quốc Tảng, Huệ Chi đã sớm phát hiện ra là Trần Tung, sau đọc Nguyễn Lang mới biết ông cũng từng tìm ra Trần Quốc Tung), đã bổ sung thêm các phần Đối Cơ, Tụng cổ; phần thơ giữ nguyên được 4 bài thơ dịch của Đào Phương Bình. Trần Quang Khải do Nguyễn Huệ Chi biên soạn, Trần Thánh Tông do Phạm Tú Châu biên soạn đều chỉ giữ lại được 1 bài thơ dịch của Đào Phương Bình… Trường hợp Phạm Sư Mạnh là một tác giả lớn của Tập III, có 43 bài thơ và 1 bài văn bia (không rõ ai chịu trách nhiệm "biên soạn"), nhưng trong sách hiện có thì Đào Phương Bình dịch 8 bài; 3 bài lấy lại bản dịch của Đinh Văn Chấp đăng từ trước năm 1945; 7 bài là dịch mới của người trong hai nhóm (Đào Thái Tôn 4 bài, Tuấn Nghi 1 bài, Trần Lê Sáng 1 bài, Đỗ Văn Hỷ dịch bài văn bia), vẫn còn 24 bài không có thơ dịch. Xem ra 12 thành viên trẻ của cả hai nhóm biên soạn cũng đã làm việc cẩn thận, kỹ càng. Thời kỳ thứ hai sau các bác do 12 chúng tôi (sau có thêm thế hệ 3) đảm nhiệm. Đóng góp của thời đoạn này, theo tôi nên được ghi nhận ở 4 phần việc sau: - Phần "Khảo luận", như một cương lĩnh làm việc cho công trình TVLT và cũng đưa ra những gợi ý quan trọng để độc giả quan niệm về một giai đoạn văn học, những đối tượng văn học, các loại hình văn học buổi sơ khai của văn học viết, giới thuyết những lý luận của tiền nhân về quan niệm "văn" thời ấy và về những vấn đề liên quan đến tiến trình hình thành các dòng phái, thể loại văn chương, tổng quát lại lịch sử sưu tập, khảo cứu văn bản của tiền nhân từ xa xưa cho đến Phan Huy Chú, Bùi Huy Bích; trình bày một cách toàn cảnh (trong điều kiện có được) của thành tựu, sự còn mất của một thời đại văn học mà cho đến bấy giờ chưa có công trình nào chuyên sâu và đầy đủ như "Khảo luận". - Phát hiện, sưu tầm, bổ sung thêm nhiều tác phẩm mới mà bản thảo thời kỳ I của hai bác chưa tập hợp. Số lượng tác phẩm này cũng khá nhiều, bao gồm thành tựu của mấy chục chuyến điền dã, trên địa bàn hơn 10 tỉnh ở Bắc Bộ cho đến bắc Trung Bộ, và ở các loại thư tịch trong những thư viện lớn (Những đợt điền dã này có sự giúp đỡ tận tình của các cán bộ Ty, Sở văn hóa các tỉnh, các nhà nghiên cứu lịch sử Mỹ thuật của Viện Mỹ thuật và cả một số anh em ngoài Nhóm TVLT). Hai tập đầu, tôi đã tính sơ qua ở phần trên, riêng Tập III, chỉ tính phần Phụ lục cũng đã bổ sung 149 bài. Còn Tập II Quyển hạ, chưa xuất bản nhưng tôi biết phần bổ sung ở Tập này có đến 5, 6 sách lớn, như Thánh đăng ngữ lục, Thiền uyển tập anh, Tam tổ thực lục, An Nam chí lược, Lĩnh nam chích quái, Việt điện u linh, mỗi quyển riêng văn bản chữ Hán đã đến mấy trăm trang. Chính vì thế con số của toàn bộ bộ sách, nếu in đầy đủ, tôi nghĩ rằng không chỉ dừng ở 2420 trang in khổ 19 x 27 như hiện có (Tập I: 632 trang; Tập II Quyển thượng: 966 trang; Tập III: 822 trang) mà có thể phải tới hơn 3500 trang. Nếu quy đổi ra số trang bản thảo chép tay có lẽ cũng đến hơn 5.000 trang (mỗi trang khổ 19 x 27 ít nhất phải một trang rưỡi bản thảo)… - Những phát hiện về văn bản học, đính ngoa văn bản đã có, tìm ra quá trình truyền bản của một số tác phẩm, giúp vào việc xác định chính xác hơn những tài liệu đã thu thập được. - Rà soát và hoàn chỉnh thêm bản thảo thời kỳ I ở các công đoạn khảo chú, sửa chữa, diễn đạt lại cho văn chương cập nhật hơn, thích hợp hơn hoặc thay thế bản dịch khác nếu thấy cần thiết. Đọc trong bộ TVLT, bạn đọc có thể thấy các "biên soạn viên" thời kỳ II (Đỗ Văn Hỷ, Nguyễn Huệ Chi, Phạm Tú Châu, Trần Băng Thanh, Trần Nghĩa (Tuấn Nghi), Trần Lê Sáng, Nguyễn Đức Vĩ (Tiên Sơn), Đào Thái Tôn, Hoàng Lê, Phạm Đức Duật…) đều đã thực hiện công việc đó, nhiều hay ít tùy theo tình hình bản thảo đã có và theo cảm thức của mỗi người. Chỉ tiếc rằng chúng tôi không lưu giữ được bản thảo gốc, bây giờ cần đến thật không biết tìm ở đâu. Gần đây tôi đã chuyển dần "sản phẩm" của mình gửi vào Trung tâm di sản các nhà khoa học nhưng hầu như chẳng có công trình nào có được một bộ hồ sơ đầy đủ. Ngày ấy chúng tôi còn trẻ, cũng mới vào nghề, chỉ lo sao hoàn thành công việc, bản thảo không chỉ làm một lần mà mỗi lần chỉnh sửa đều phải chép lại, cho nên để đỡ công và cũng đỡ tốn giấy (văn phòng phẩm thuở ấy được phát từng tháng, có đợt là loại giấy đen sì, lộn nhộn gân nứa…) chúng tôi thường cắt dán, mỗi trang có khi đến 2, 3 tầng, chị Tú Châu thường đùa tôi là "vá đụp". Cũng do vậy, bản thảo được đem đánh máy xong thì chỉ lo giữ bản chính thức, những bản trung gian không còn nguyên vẹn chẳng coi là quan trọng nữa, Nhóm chẳng thu hồi, mỗi người gói buộc lại để đâu đó, còn mất cũng chẳng quan tâm! Ban văn học Cổ cận đại cũng có 2 chiếc tủ gỗ nhưng hồ sơ thì nhiều, chẳng có chỗ, mà Viện lại càng không có nơi gửi. Tính tôi thô suất đã làm mất những bản thảo mình "biên soạn", còn các bạn tôi không biết có ai giữ được? Có những lần tôi định tra cứu một việc gì đó, tìm đến các công trình tập thể khác của Viện, kể cả của Ban, cũng chẳng còn tìm thấy bản thảo chép tay! Nhưng cái chính là chúng tôi quan niệm công trình tập thể là công sức chung, những ghi nhận cá nhân, danh tính đã có ở sách, chẳng hề tính toán hơn thiệt. Tất nhiên ngày nay nghĩ lại cách ghi danh như TVLT cũng có chỗ chưa thỏa đáng với tất cả mọi người làm. Lấy một ví dụ như xác định một văn bản một tác phẩm. Đây là một công đoạn rất quan trọng và công phu, người làm văn bản phải đọc hết các bản chép tác phẩm, lại tìm đọc các tài liệu liên quan, khối lượng trang sách gấp đến mấy lần bản được dịch, cuối cùng mới xác định được bản chọn, hoặc bản nền. Nếu tự mình làm từ đầu đến cuối thì không có gì phải phàn nàn, nhưng nhiều khi trong công trình, một vài người nào đó được giao phụ trách công tác văn bản thì công lao sẽ chẳng được ghi ở đâu. Người đọc chỉ biết ông A, bà B dịch sách đó, bài đó, … Cũng vậy, công sức khảo dị, sưu tầm, chú thích, thậm chí chỉnh sửa vài chữ, thông thường chỉ nhằm nâng cao tính xác tín của tác phẩm, giúp cho tác phẩm dễ đọc, dễ cảm hơn, nhưng cũng không ít trường hợp là những đóng góp khoa học thật sự… Dù sao, tôi cho rằng bộ sách chúng tôi đã hoàn thành là một cái mốc quan trọng trong hành trình sưu tập di sản TVLT. Tương lai chắc sẽ có những "tập đại thành" khác, hy vọng các học giả rồi đây với những thuận lợi của khoa học sẽ tìm lại được những di sản của chúng ta đã bị người Minh cướp đi, tìm thêm được những tác phẩm còn ẩn náu đâu đó trong núi rừng thiên nhiên và trong dân dã, thậm chí ở Nhật, ở Hàn… Tôi vẫn hy vọng các học giả tương lai có thể làm dầy dặn thêm nữa bộ sách của chúng ta. Riêng với tôi, được tham gia vào công việc biên soạn TVLT là một điều hết sức may mắn. Tôi được học tập rất nhiều, học chữ nghĩa, học kiến thức, học cách làm việc, học làm văn bản mà khi trước PGS Nguyễn Văn Hoàn thường gọi đùa là "chủ nghĩa tờ a tờ b của Cụ Tố, Cụ Hãn"… và nhiều nữa. Có lẽ điều kiện may mắn (hay đúng hơn là thuận lợi trong không khí làm việc) như chúng tôi khi "biên soạn" thơ văn Lý Trần có thể không dễ có. Sau khi nhận việc, chúng tôi – cả hai nhóm – còn được cho học tiếp 3 năm tại chức một lớp Chuyên tu Hán học, cho đến năm 1972 mới kết thúc, rồi sau đó, bác Đỗ Ngọc Toại vẫn tiếp tục mở lớp bổ túc kinh nghiệm dịch và cách tra cứu cho tôi và chị Phạm Tú Châu, chúng tôi luôn luôn có cố vấn để học hỏi và thảo luận, chúng tôi được các thầy khuyến khích "đương nhân bất nhượng ư sư" (trước điều đúng thì không phải nhường người thầy). Đó là một tinh thần hết sức nhân văn, do vậy trong công việc chúng tôi dám mạnh dạn sửa chữa bản thảo, góp ý cho nhau, nhưng cũng cố gắng cẩn trọng hết mức, khiến cho mỗi bản dịch dù mang tên một người nhưng ở đó nhiều khi công sức của đồng nghiệp không ít… Và cuối cùng thì Giáo sư Đặng Thai Mai và Giáo sư Cao Xuân Huy vẫn kịp duyệt xong cho chúng tôi được 3 tập trong bộ TVLT. Tôi cũng mừng vì đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, chỉ bị trách cứ nhiều lần vì "không đúng tiến độ kế hoạch". Tôi cũng mong có dịp góp phần sửa chữa những thiếu sót trong thành quả trước đây của bản thân mình và của Nhóm, nhưng cũng không dám chắc có đủ thời gian để thực hiện. Vì đã tham gia vào công cuộc sưu tầm biên soạn di sản TVLT, mà nay công trình của chúng tôi đã tròn Năm Mươi Tuổi (1968 -2018), hai nhóm chúng tôi hiện nhân số chỉ còn lại một phần ba, tôi muốn được một lần "kể lể" những công việc bản thân tôi cũng như Nhóm chúng tôi thực sự đã làm để chia sẻ trách nhiệm với các vị tiền bối trong danh nghĩa "biên soạn". Mặt khác, cũng là một lần mong được lần giở lại công lao "không thầy đố mày làm nên" của hai bác Nguyễn Đức Vân, Đào Phương Bình đối với tôi, cũng như công sức của các thế hệ tiền bối suốt nửa đầu thế kỷ XX đã gìn giữ tài sản vô giá của đất nước, dân tộc mà tôi vẫn ngưỡng mộ coi là các bậc thầy. Mấy điều hồi ức lan man, tôi rất xin lỗi nếu đã làm phiền độc giả. Hà Nội, ngày 15- 8-2018 T.T.B.T. Tác giả gửi BVN | ||
Nguyễn Ngọc Sẵng - Tàu Cộng: Một con đường nhiều bi kịch Posted: 19 Aug 2018 03:06 PM PDT Đăng bởi: Tiểu Nhi on Chủ Nhật, 19 tháng 8, 2018 | 19.8.18...Nếu cuộc chiến thương mại vẫn tiếp tục leo thang, niềm tin về kinh tế sẽ lung lay trong lòng dân và sẽ phát sinh thêm nhiều vấn nạn lớn hơn do việc giảm sút xuất cảng. Đã có dấu hiệu trong nội bộ đảng cộng sản Tàu nếu cuộc chiến thương mại không có biện pháp chấm dứt thì quyền lực lãnh đạo của nhóm Tập sẽ gặp khó khăn... Con đường duy nhất là thương thảo với Hoa Kỳ, nhưng thương thảo thế nào để đừng, hoặc ít mất thể diện của cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới, tránh chứng tỏ khả năng lãnh đạo kém, gây bất mãn trong nhân dân Tàu.. Hôm 1 tháng 8, chính quyền của Tổng thống Trump xác nhận sẽ tăng thế xuất từ 10 lên 25% trên 200 tỷ hàng hoá nhập cảng từ Tàu Cộng. Việc tăng thuế xuất này sẽ áp dụng trên các linh kiện điện tử, máy móc, phụ tùng xe và sản phẩm công nghệ. Ông Lighthizer, đại diện thương mại của chính phủ nói rằng "việc tăng thêm thuế này cung cấp thêm những lựa chọn cho Tàu để khuyến khích họ thay đổi chính sách, lối vận hành thương mại đầy tai hại, và chấp nhận những phương thức hướng tới thị trường công bằng hơn và đem lại thịnh vượng cho toàn dân". Phản ứng lại, ông Geng Shuang, phát ngôn viên của Bộ Ngoại Giao Tàu Cộng tuyên bố "Những áp lực, những đe dọa sẽ không hiệu quả. Nếu Mỹ tăng cường thêm nhiều biện pháp khác, Trung Quốc sẽ dùng những biện pháp đối phó và sẽ cương quyết bảo vệ những quyền hợp pháp của Trung Quốc". (Theo Reuters ngày 1/8/2018). Theo Quỹ Tiền Tệ Thế Giới (IMF), hai vấn nạn lớn nhất mà Tàu Cộng phải khắc phục, đó là (1) giảm nợ và (2) thay đổi cách điều hành các công ty quốc doanh bằng cách phân bổ vốn một cách có hiệu quả cho nền kinh tế. Quỹ Tiền Tệ Thế Giới nhận định trong năm 2017, Tàu Cộng đã giảm cho vay tín dụng đáng kể, nhưng chưa đủ để ổn định tỷ lệ cho vay tín dụng và mức thu nhập quốc gia. Theo tờ South China Morning Post ngày 31 tháng 7, kinh tế Tàu cộng đang hiện rõ những dấu hiệu xấu, không giống như hình ảnh trong những tựa đề báo nhà nước đăng tải, cho dù chưa bị ảnh hưởng toàn bộ của cuộc chiến thương mại. Toàn bộ nền kinh tế bị chậm lại, một số địa phương bị đình trệ, hoặc co lại. Chỉ số sản xuất rớt xuống 51.2 trong tháng Bảy, một chỉ số thấp nhất từ 5 tháng qua, theo con số thống kê của nhà cầm quyên vào ngày 31/7. Hôm thứ Năm, trả lời trên hệ thống truyền hình Fox, ông Wilbur Ross Bộ Trưởng bộ Thương Mại báo hiệu "còn nhiều đau đớn sẽ đến", trừ khi Tàu Cộng thay đổi chính sách kinh tế. Ông tiếp "chúng ta sẽ tạo thêm nhiều tình huống để họ đau hơn vì hành động xấu, thay vì cải cách đường lối kinh tế". Trong một nhận định khác, ông Ross cho rằng nếu Tàu trả đủa đánh 25% thuế trên 200 tỷ hàng nhập cảng từ Mỹ, thì con số đó sẽ là 50 tỷ Mỹ kim. 50 tỷ Mỹ kim với nền kinh tế 18,000 tỷ, đó là số nhỏ! Đảng cộng sản Tàu "hô khẩu hiệu" Vẫn khẩu hiệu cũ, Tàu Cộng thề sẽ giáng trả lại Mỹ, hành động đe dọa của Mỹ sẽ thất bại. Tàu Cộng chuẩn bị kỹ lưỡng để đánh trả, bảo vệ giá trị quốc gia và quyền lợi người dân, bảo vệ tự do mậu dịch, hệ thống đa phương và bảo vệ quyền lợi mọi quốc gia. Chủ nghiã "cây gậy và củ cà rốt" Mỹ không còn hiệu quả, ông Bộ Trưởng Thương Mại tuyên bố. Tàu dùng tuyên giáo để đối phó cuộc chiến thương mại thay vì đưa ra biện pháp trả đủa Mỹ! Bên cạnh những đe dọa trả đủa lập đi lập lại nhiều lần, Tàu Cộng vẫn để cánh cửa thương lượng mở toang và kèm theo đòi hỏi Mỹ phải cư xử công bằng và tôn trọng những lời họ nói. Theo Reuters ngày 3 tháng 8, 2018, bên lề cuộc hội nghị tại Singapore nhà ngoại giao hàng đầu Tàu Cộng Wang Yi bắn tiếng với vị Bộ Trưởng ngoại giao Hoa Kỳ Mike Pompeo, ông muốn giải quyết những khác biệt với Hoa Kỳ trên nền tảng xây dựng. Ông nói thêm "hợp tác là con đường duy nhất đúng của hai quốc gia. Đó là mong muốn của cộng đồng quốc tế. Đối đầu sẽ cùng thua thiệt và làm tổn thương đến hoà bình, sự phát triển ổn định của thế giới",. Ông từ chối thảo luận chi tiết cuộc chiến thương mại, ông cho rằng cuộc đàm phán không thể xảy ra dưới áp lực. Yi tuyên bố nếu Hoa Kỳ muốn đàm phán, phải ngừng vô điều kiện mọi "áp lực" với họ. Ăn mày đòi xôi gấc! Ngân hàng Nhà nước Tàu Cộng đang ráo riết tìm cách ngăn chận sự mất giá đồng Quan (Yuan) với mức độ thấp nhất từ 15 tháng qua và có thể còn tệ hại hơn nữa nếu cuộc chiến thương mại tiếp tục gia tăng cường độ. Hôm thứ Ba (31/7) Một thông báo trên truyền hình từ Bộ Chính trị đảng cộng sản Tàu: "Trung Quốc vẫn tập trung vào việc giảm nợ, tạo thêm công việc làm cho dù có những "thay đổi rõ ràng" từ môi trường kinh tế "bên ngoài" (họ tránh dùng từ chiến tranh thương mại với Mỹ). Nhà nước Tàu sẽ tăng cường đổi mới kết hợp với các chính sách mở rộng cải cách mở cửa toàn diện, nhanh chóng hoàn thành nâng cấp kết cấu ngành nghề, kết cấu kinh tế, tạo nhất quán giữa hành động với đề xướng tự do mậu dịch. Trong nửa năm còn lại và sau đó vẫn tiếp tục tăng cường đầu tư xây dựng cơ bản trong nước để hạn chế những ảnh hưởng của cuộc chiến tranh thương mại. Đó là hai khẩu hiệu trong đường lối kinh tế Tập đề ra. Ngày 7/8 tờ Nhân Dân Nhật Báo tiếp tục kết án Hoa Kỳ "chơi trò hai mặt" một mặt chỉa súng trường và đại pháo vào Tàu, một mặt Hoa Kỳ yêu cầu đàm phán về mậu dịch mà không hề có chút thành tâm nào. Bắc Kinh tuyên bố nhất định không đầu hàng trong trận chiến mậu dịch. Thêm vào đó họ khẳng định Hoa Kỳ đã "mất tinh thần" khi cuộc chiến khởi động, theo tường trình của Eunice Yoon CNBC ngày 6/8. Lung Lay Quyền Lực New York Times ngày 14/8 có bài bình luận, nếu cuộc chiến thương mại vẫn tiếp tục leo thang, niềm tin về kinh tế sẽ lung lay trong lòng dân và sẽ phát sinh thêm nhiều vấn nạn lớn hơn do việc giảm sút xuất cảng. Đã có dấu hiệu trong nội bộ đảng cộng sản Tàu nếu cuộc chiến thương mại không có biện pháp chấm dứt thì quyền lực lãnh đạo của nhóm Tập sẽ gặp khó khăn. Trong những ngày gần đây, Bộ Thương Mại Tàu đã triệu tập những nhà xuất cảng đến vấn kế về việc dời những nhà máy sản xuất sang nước khác và việc sa thải công nhân. Sau 3 tháng chiến tranh với Mỹ, chứng khoáng Tàu bị giảm sụt 30%, đồng Yuan (Quan) bị sụt giá 8%, làn sóng phê bình khả năng lãnh đạo của Tập trên mạng dâng cao. Để hạ nhiệt, truyền thông Tàu vẫn tô vẽ hình ảnh kinh tế đang sáng sủa, đồng thời cấm đề cập từ "chiến tranh thương mại". Báo South China Morning Post ngày 15/8 cho biết đảng cộng sản Tàu báo động vì Bộ Thương mại không có những cố vấn, chuyên viên về thương mại có đủ khả năng đưa ra những ý kiến đúng đắn, chính sách hữu hiệu cho đảng, chính phủ về cuộc chiến thương mại đang trong thời điểm quan trọng. Ngược lại, họ cho rằng phía Mỹ có những vị luật gia, chuyên viên dày dặn kinh nghiệm trong lãnh vực nầy. Do ảnh hưởng cuộc chiến thương mại, gần đây Bộ Chính trị đảng cộng sản Tàu quyết định ưu tiên cho việc tăng trưởng kinh tế, phân bổ tài chính và ngân sách. Cụ thể là kế hoạch chi tiêu 1.35 ngàn tỷ (trillion) Quan, tương đương 196 tỷ USD cho xây dựng hạ tầng cơ sở, giảm đến 1.1 ngàn tỷ Quan về thuế và lệ phí hành chính. Và Ngân Hàng Nhân Dân đã 3 lần giảm tiền quỹ ký thác để tăng lượng tiền cho vay trong năm nay. Trong tháng Bảy, việc mua sắm trong nước Tàu sụt giảm, làm tiêu tan hy vọng tăng trưởng tiêu thụ của người dân sẽ giúp làm giảm nhẹ tai hoạ từ cuộc chiến thương mại. Một cú hít lớn trong tháng Tám là đại công ty kỹ thuật TenCent, như Google của Mỹ, có tỷ số chứng khoáng rớt 2.9 trong thứ Năm vừa qua. Các kinh tế gia ở Hồng Kông cho biết đó là chỉ số sức khoẻ kinh tế Tàu u ám một ph ần vì lợi nhuận TenCent giảm sút đáng ngại. Trước viễn cảnh không sáng sủa đó, Tàu Cộng đang cử một phái đoàn đàm phán thương mại đến Mỹ. Tóm lại, Tàu Cộng tăng thuế với ba mặt hàng chính yếu (1) Đậu nành, Tàu đang mua của Brazil đắc hơn Mỹ USĐ 2.60 cho mỗi bushel (bằng 27.2 ký) và Mỹ sẽ bán đậu nành sang Châu Âu, thị trường đậu nành lớn thứ hai thế giới; (2) Bán tháo trái phiếu Mỹ, sẽ gây rất ít thiệt hại vì với số nợ 1.5 ngàn tỷ chỉ bằng 7% tổng số nợ của Hoa Kỳ và đánh mất một yếu tố thuận lợi trong đàm phán, phần chính 70% nợ mà sở hữu chủ là người Mỹ; (3) hạ giá đồng Quan sẽ làm cho giới đầu tư nhanh chóng rời bỏ Tàu để tìm chỗ an toàn cho nguồn vốn của họ. Cả ba biện pháp gây thiệt thòi cho Mỹ thì ít, ngươc lại Tàu Cộng sẽ thiệt hại nặng nề. Nói theo thuật ngữ của giới kinh tế thì chính Tàu "tự bắn vào chân mình". Con đường duy nhất là thương thảo với Hoa Kỳ, nhưng thương thảo thế nào để đừng, hoặc ít mất thể diện của cường quốc kinh tế thứ nhì thế giới, tránh chứng tỏ khả năng lãnh đạo kém gây bất mãn trong nhân dân Tàu và thành phần bất đồng chính kiến, sẽ ảnh hưởng đến vị trí lãnh đạo của Tập. Việc nầy không dễ dàng. Và hậu quả của việc "đầu hàng" sẽ góp phần dọn đường cho ông Trump trở thành Tổng Thống Hoa Kỳ nhiệm kỳ hai. Một con đường, nhiều bi kịch. Nguyễn Ngọc Sẵng | ||
VÌ SAO ĐẢNG CỨ IM LẶNG MÃI, KHÔNG LÊN TIẾNG? Posted: 19 Aug 2018 06:57 AM PDT -Nguyễn Đăng Quang- Hội nghị Thành Đô (3-4/9/1990) và các thỏa thuận ký kết giữa lãnh đạo 2 Đảng và Nhà nước Việt Nam - Trung Quốc đến nay đã đúng 38 năm, song vẫn là một bí mật lạnh lùng! Không chỉ nhân dân thế giới mà ngay cả người dân Việt Nam cũng như người dân Trung Quốc đều bị lãnh đạo của họ dấu tiệt, không hé lộ một lời về những gì họ đã thỏa thuận với nhau tại Hội nghị này cách đây 38 năm về trước! (Giang Trạch Dân và Lý Bằng hồ hởi chào đón các lãnh đạo ĐCSVN chiều 3/9/1990. Nguồn: Internet) Cách đây hơn 4 năm, ngày 28/7/2014, 61 đảng viên tâm huyết của ĐCSVN đã ký "Thư ngỏ gửi BCH Trung ương và toàn thể đảng viên ĐCSVN" (gọi tắt là "Thư ngỏ 61"). Mời đọc tại đây:https://anhbasam.wordpress.com/2014/07/29/thu-ngo-gui-bch-trung-uong-va-toan-the-dang-vien-dang-csvn/. "Thư ngỏ 61" kiến nghị ĐCSVN thực hiện 2 yêu cầu cấp thiết và trọng yếu của đất nước: Một: "ĐCSVN cần thay đổi cương lĩnh, từ bỏ đường lối sai lầm về xây dựng CNXH, chuyển hẳn sang đường lối dân tộc và dân chủ, trọng tâm là chuyển đổi thể chế chính trị từ toàn trị sang dân chủ một cách kiên quyết nhưng ôn hòa." Hai: "Là người chủ đất nước, nhân dân có quyền được biết và phải được biết sự thật về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc và những điều quan trọng đã ký kết với Trung Quốc như Thỏa thuận Thành Đô 1990, các thỏa thuận về hoạch định biên giới trên đất liền và trên Vịnh Bắc bộ, những thỏa thuận về kinh tế v.v..." Trong 61 đảng viên ký Thư ngỏ này có 1 quân nhân kỳ cựu, 1 "anh bộ đội cụ Hồ" đích thực, đó là Thiếu tướng Lê Duy Mật (1927-2015), cựu Phó Tư lệnh kiêm Tham mưu trưởng Quân khu II, cựu Chỉ huy trưởng Mặt trận Vị Xuyên, Hà Giang (1979-1984). Tướng Lê Duy Mật là người rất cương trực, tính khí khẳng khái, là một vị tướng can trường trận mạc, trải khắp các chiến trường A,B,C,K qua 3 cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và Tầu xâm lược! Một chi tiết không phải ai cũng biết, 1 tuần trước khi đấy, ngày 20/7/2014, ông đã gửi TBT Nguyễn Phú Trọng, BCT và BBT một Tâm thư với nội dung rất mạnh mẽ và quyết liệt, đó là yêu cầu Đảng phải công khai hóa Thỏa hiệp Thành Đô, đồng thời phải cho Tổng kết cuộc chiến chống Trung Quốc xâm lược. (Xem tại đây:https://bongbvt.blogspot.com/2014/08/thieu-tuong-le-duy-mat-co-hay-khong-mot.html) Ông nêu nghi vấn việc này có hay không, thực hư ra sao, Đảng phải làm rõ! Và rồi ông yêu cầu BCT và BBT phải công bố các văn bản đã thỏa thuận ký kết giữa 2 Đảng trong Hội nghị Thành Đô cho toàn Đảng, toàn dân biết để chứng minh hư thực. Nếu Thỏa hiệp Thành Đô là đúng như Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo của Trung Quốc đưa tin, thì rõ ràng đấy là bản thỏa hiệp rất nguy hiểm cho đất nước, chẳng khác nào là phản bội Tổ quốc! Tiếp ngay sau đấy, ông kiến nghị Trung ương xem xét ra tuyên bố phản bác bản Thỏa hiệp đó, chấn chỉnh lại tổ chức, kỷ luật những người đã ký và cả những người thực hiện sau này! Tôi quen biết Tướng Lê Duy Mật trong những dịp bàn thảo và ký "Thư ngỏ 61". Tất cả 61 đảng viên ký tên đều nhất trí cao về nội dung, câu chữ và đặc biệt là về 2 vấn đề trọng yếu và cấp thiết của đất nước. Riêng tướng Lê Duy Mật và một vài anh muốn "Thư ngỏ 61" đề cập thêm Điều khoản mà Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo đã tiết lộ, nhưng khi cân nhắc, ý kiến trên không được chấp thuận, đa số cho rằng cần phải rất thận trọng, để theo dõi thêm, chưa khẳng định vội. Sau này mỗi khi gặp nhau, tướng Mật nói vui, bảo tôi là "Ồ đây rồi, ông bạn hăng hái nhất chặn tớ đây rồi!". Khi gửi Tâm thư và ký vào "Thư ngỏ 61", tướng Mật ở tuổi 87, sức khỏe đã yếu. Không lâu sau ông phải vào Quân y viện 108 điều trị bệnh hiểm nghèo. Mỗi lần vào thăm ông, tôi nhận thấy, dù đang nằm trên giường bệnh, nhưng ông luôn đau đáu, trăn trở với hiện tình đất nước, nhất là về mối nghi ngờ của ông đối với Hội nghị Thành Đô. Ông hỏi tôi lý do vì sao không đồng tình với ông về Điều khoản mà ông gọi là "bán nước", tôi đáp: "Thưa anh, tất cả bọn họ đều u mê về ý thức hệ, họ sẵn sàng đặt quyền lợi của họ lên trên lợi ích quốc gia. Song có lẽ họ chưa ngu muội đến mức có thể bán rẻ Tổ quốc!". Tôi phân tích thêm: "Vả lại, kẻ thù của ta, chắc anh không xa lạ và còn biết rõ hơn em, chúng là bậc thày trong các quỷ kế gây chia rẽ, ly dán và phân hóa nội bộ ta! Do vậy chúng ta cần hết sức tỉnh táo, thận trọng và cảnh giác để khỏi xa vào mưu đồ xấu xa, hiểm độc của chúng!". Ông im lặng, tay vỗ nhẹ vào vai tôi, không rõ ông đồng tình hay phản đối? Thế rồi hơn một tháng sau, ngày 20/10/2015, tôi lặng người khi nghe tin ông mất, mang sang thế giới bên kia mối nghi ngờ rất lớn mà ông chưa được Đảng giải đáp! (Nỗi u buồn và vẻ mặt trầm tư của tướng Lê Duy Mật trước ngày ra đi. Ảnh: PVĐ) "Tâm thư" của tướng Mật và "Thư ngỏ 61" của các đảng viên gửi ĐCSVN đã hơn 4 năm rồi mà chẳng có ai hồi âm. Tính đến nay, ngoài tướng Lê Duy Mật, có 4 người khác ký "Thư ngỏ 61" đã ra đi mãi mãi cùng ông! Không rõ Đảng muốn đợi những đảng viên ký "Thư ngỏ 61" ra đi bớt rồi mới trả lời hay là Đảng đợi 2 năm nữa, đúng ngày 4/9/2020, mới chính thức công bố cho toàn dân biết? Những điều họ kiến nghị, hoặc những vấn đề họ yêu cầu làm rõ đều nằm trong quy định những quyền đảng viên được biết và bổn phận Đảng phải làm (Điều 3 Điều lệ Đảng và Điều 4 Hiến pháp). Hơn nữa, câu hỏi mà tướng Mật yêu cầu Đảng làm rõ đâu có phải là của "thế lực thù địch" bịa đặt ra, mà đây là sự tiết lộ của "các đồng chí 4 tốt" của Đảng! Sự việc ở đây thật đơn giản: Nếu CÓ thì bảo là CÓ. Nếu KHÔNG thì bảo là KHÔNG, uẩn khúc ghê gớm gì đâu mà Đảng không dám trả lời? Trong bài viết ngày 3/8/2014 với nhan đề: "Phải công bố các thỏa thuận ở Thành Đô cho nhân dân biết" (mht!http://boxitvn.blogspot.com/2014/08/phai-cong bo cac thoa thuan o thanh do cho nhan dan biet), người viết bài này kiến nghị: "Xung quanh Hội nghị thượng đỉnh và các thỏa thuận mà Việt Nam đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô, có nhiều phân tích, đánh giá, nhận định và thông tin trái chiều, thậm chí cả những đồn thổi nguy hiểm, bất lợi về mặt dư luận... làm người dân hoang mang, bán tín bán nghi, không biết đâu là hư, đâu là thực! Mọi hiện tượng trên sẽ chấm dứt một khi Đảng và Nhà nước báo cáo cho toàn dân biết sự thật về mối quan hệ VN – TQ, đặc biệt là các thỏa thuận mà lãnh đạo ta đã ký với Trung Quốc ở Thành Đô". Nhà thơ thế sự nổi tiếng Thái Bá Tân mới đây post lên FB của mình bài thơ "Đề nghị Đảng giải thích" (https://www.facebook.com/ThaiBaTan02/posts/517370198724875) nói về việc tướng Lê Duy Mật gửi Tâm thư chất vẩn Đảng mà không được trả lời. Xin mạn phép trích dẫn 4 khổ trong bài thơ nói trên để chia xẻ cùng bạn đọc: "Thiếu tướng Lê Duy Mật, Không phải người hồ đồ, Vừa tiết lộ một ý Trong Thỏa hiệp Thành Đô. "Rằng vì lợi ích đảng, Đảng ta đã tự mình Xin làm Khu tự trị Của chính quyền Bắc Kinh. "Không thể nào tin nổi. Nhưng nếu đúng, thì đây Là tội ác cực lớn, Loại ngựa xéo, voi dày! "Tôi là con dân Việt, Có quyền biết thật hư. Yêu cầu Đảng giải thích, Không một phút chần chừ ! Vâng, thưa nhà thơ Thái Bá Tân, nói rõ thật hư, công khai, minh bạch, không chỉ là trách nhiệm mà còn là nghĩa vụ của Đảng cầm quyền đối với 4 triệu đảng viên của mình và 90 triệu con dân đất Việt! Nếu cứ lặng thinh, từ chối trách nhiệm thì Đảng không xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội như đã ghi trong Điều 4 Hiến pháp 2013! Hà Nội, ngày 19/8/2018. N.Đ.Q Ghi chú của người viết: Bài viết này chắc chắn sẽ không có nếu Đảng không giữ im lặng trong suốt 4 năm qua. Đúng ra, theo lẽ thường tình, khi nhận được "Tâm thư" của tướng Lê Duy Mật và "Thư ngỏ" của 61 đảng viên tâm huyết, Đảng nên có hồi âm hoặc đối thoại dưới hình thức nào đó. Nhưng rất tiếc những điều này không diễn ra, mà là những việc làm ngược lại! Nếu vì lý do gì đó, Đảng không thể công khai cho nhân dân biết về mối quan hệ giữa 2 nước VN-TQ, đặc biệt là các thỏa thuận đã ký với TQ ở Hội nghị Thành Đô, thì ít ra, Đảng cũng nên lên tiếng phủ nhận và bác bỏ nguồn tin (Điều khoản) do Tân Hoa xã và Hoàn cầu Thời báo tiết lộ, đồng thời lệnh cho 700 báo đài ở Trung ương và địa phương phản bác, lên án và tố cáo nguồn tin xấu độc này! Và, cũng thật lạ, là tại sao Đảng không chỉ thị cho Ban Đối ngoại hay Người phát ngôn BNG hoặc TTXVN lên tiếng yêu cầu phía Trung Quốc có biện pháp chấm dứt, không để lặp lại những trường hợp tương tự! Vậy, vì sao Đảng cứ im lặng mãi, không lên tiếng, và cũng chẳng giải thích để yên lòng dân, mà cứ để ai muốn hiểu sao thì hiểu, muốn nghĩ sao thì nghĩ? Đây chính là nguyên nhân gây nên sự nghi ngờ ngày một lớn trong dư luận người dân, kể cả trong nội bộ Đảng! Lỗi này không phải của ai mà chính là của Lãnh đạo và các cơ quan tham mưu của Đảng! N.Đ.Q. | ||
Chính quyền Trung Quốc đang tăng số lượng và mở rộng nhà tù ở Tân Cương Posted: 18 Aug 2018 05:28 PM PDT Trung Quốc đã mở rộng chương trình cải tạo những người được cho là "thành phần nguy hiểm", với mục tiêu ban đầu nhắm vào người Duy Ngô Nhĩ nhưng hiện đã bao gồm cả những người theo tôn giáo nói chung, Nhật báo phố Wall (WSJ) đưa tin. Có tới 1 triệu người, tương đương 7% người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương, Trung Quốc, hiện đang bị giam giữ trong một hệ thống các trại "cải tạo chính trị", theo các quan chức Hoa Kỳ và các chuyên gia Liên Hợp Quốc. Khi các trại cải tạo bị quá tải, một số người Duy Ngô Nhĩ lớn tuổi được chính quyền Bắc Kinh ở địa phương thả tự do, nhưng đã chết ngay sau đó, tờ WSJ dẫn lời người thân của những tù nhân được phóng thích cho hay. Hình ảnh vệ tinh được WSJ và một chuyên gia phân tích ảnh chỉ rõ, trong hai tuần qua, các trại cải tạo chính trị ở khu vực Tân Cương đã gia tăng về số lượng và nhiều trại đã được mở rộng diện tích cũng như cơi nới hoặc xây mới buồng giam. Tuy nhiên, quy mô phát triển các trại cải tạo chính trị có thể còn vượt quá những gì WSJ đánh giá do nhiều người Duy Ngô Nhĩ từ chối tiết lộ thông tin vì sợ bị trả thù. WSJ đã tiếp cận được 6 nhân chứng là những cựu tù nhân. Họ cho biết đã bị ngược đãi trong trại cải tạo khi công an thường trói họ vào ghế và bỏ đói họ. Ablikim, một cựu tù nhân 22 tuổi, nói: "Họ cũng nói với chúng tôi về tôn giáo, nói rằng những điều tôn giáo nói là không có thật, và rằng tại sao lại tin vào tôn giáo, không có Thượng đế đâu". WSJ cũng đã nói chuyện với 30 người thân của những người bị chính quyền giam giữ, 5 người trong số họ tiết lộ rằng người thân của mình đã chết trong trại hoặc chết sau khi được thả. Nhiều người cho biết họ đã phải rất vất vả mới biết được tình trạng sức khỏe cũng như địa điểm người thân của mình bị giam giữ. Một quan chức cấp cao của Trung Quốc, ông Hu Lianhe thuộc Mặt trận Tổ quốc, đã lần đầu tiên công khai thừa nhận sự tồn tại của các trại, nhưng cho biết đó không phải là các trại cải tạo chính trị mà là "trung tâm đào tạo nghề". Trả lời các câu hỏi của Liên Hiệp Quốc, ông Hu cho biết không có việc "giam giữ tùy ý" ở Tân Cương và phủ nhận con số một triệu người bị bắt giam, nhưng lại không nói có bao nhiêu người đang được "học nghề" ở các trung tâm. Trung Quốc đã phải rất vất vả trong nhiều thập kỷ để kiềm chế ý chí độc lập của người Duy Ngô Nhĩ, những người nói tiếng Thổ Nhĩ Kỳ này đã từng đạt được trạng thái độc lập hai lần vào những năm 1930 và 1940 thế kỷ trước. 11 triệu người Duy Ngô Nhĩ ở Tân Cương vẫn đang hy vọng xây dựng được một đất nước độc lập mà họ gọi tên là Đông Turkestan. Trung Quốc đã đưa ra nhiều quy định ngặt nghèo đối với người Duy Ngô Nhĩ trong 2 năm qua, cấm đàn ông của sắc dân này để râu và phụ nữ mặc áo che mặt, đồng thời triển khai chương trình giám sát điện tử trên khắp Tân Cương, theo WSJ. Tại một trại tập trung ở thành phố Turpan, Tân Cương, một bảng hiệu được gắn trên một tòa nhà lớn với dòng chữ Trung Quốc màu đỏ: "Cảm nhận tư tưởng đảng, tuân lời đảng, theo sự lãnh đạo của đảng", các lính canh đã hét vào mặt một phóng viên báo chí khi người này có ý định tiến gần tới tòa nhà. Ablikim cho biết anh đang nghiên cứu lĩnh vực quan hệ quốc tế tại Kazakhstan thì công an Turpan gọi điện cho anh vào tháng Hai và đe dọa rằng gia đình anh sẽ gặp rắc rối nếu anh không trở về Tân Cương. Khi đến nơi, công an đưa anh đến một khu phức hợp ở ngoại ô của Turpan có hàng rào dây thép gai bao quanh và được các nhân viên vũ trang bảo vệ. Ablikim nói rằng anh đã bị thẩm vấn ở đó nhiều ngày, có khi tới 9 tiếng đồng hồ một ngày, trong tình trạng chân của anh bị buộc vào chân ghế và tay thì bị còng sau lưng ghế. Công an muốn biết liệu anh có liên quan tới các nhóm tôn giáo ở nước ngoài hay không. Ablikim nói rằng anh không có bất cứ mối liên hệ nào như họ nghi ngờ. Cuối cùng anh Ablikim bị đưa vào trại cải tạo chính trị cùng với các tù nhân khác. Anh cho hay, các tù nhân bị đánh thức lúc 5 giờ sáng mỗi ngày và phải tham gia chạy bộ 45 phút, trong quá trình chạy sẽ phải hô lớn từng đợt, câu "Đảng Cộng sản là tốt!". Kha Đạt Có thể bạn quan tâm: | ||
Tổng thống Trump lên án các mạng xã hội ‘kiểm duyệt thông tin’ Posted: 18 Aug 2018 05:26 PM PDT 05:28, 19/08/2018Tổng thống Trump hôm thứ Bảy (18/8) cảnh báo ông sẽ hành động ngăn chặn tình trạng kiểm duyệt thông tin và "phân biệt đối xử" của một số mạng xã hội đối với những người theo quan điểm bảo thủ ủng hộ truyền thống (conservatives). Tại khu nghỉ mát của mình ở Bedminster, New Jersey, ông Trump cho biết: "Các mạng xã hội hoàn toàn phân biệt đối xử chống lại tiếng nói của đảng Cộng hòa / Bảo thủ". "Nói to và rõ ràng cho chính quyền Trump rằng, chúng tôi sẽ không để điều đó xảy ra", ông Trump nói. "Kiểm duyệt [thông tin] là một điều rất nguy hiểm và hoàn toàn không thể duy trì trật tự được", ông tiếp tục. Bình luận của ông Trump được đưa ra vài ngày sau khi Twitter đình chỉ tài khoản của người dẫn chương trình cánh hữu Alex Jones trong vòng một tuần vì vi phạm chính sách của mạng xã hội này, theo Wall Street Journal (WSJ). Trước đó, các công ty công nghệ khác, bao gồm Apple, YouTube và Facebook đã xóa nội dung của ông Jones hoặc website của ông, trang Infowars. Các lý thuyết âm mưu mà ông Jones và Infowars đặt ra đã trở thành trung tâm của cuộc tranh luận trong các công ty công nghệ. Đầu năm nay, cha mẹ của hai đứa trẻ thiệt mạng trong vụ xả súng ở trường tiểu học Newtown năm 2012 đã kiện ông Jones, nói rằng ông liên tục gọi vụ bắn súng là giả mạo và là một tình huống nhằm thúc đẩy việc kiểm soát súng. Tuần này, sau khi bị cấm hoặc bị đình chỉ bởi một số nền tảng công nghệ, ông Jones đã đề nghị Tổng thống Trump chỉ ra vấn đề lớn của việc kiểm duyệt thông tin. Ông Jones cũng hối thúc Tổng thống Trump "bước ra làm rõ rằng chính quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã xâm nhập và thẩm thấu vào [nước Mỹ] theo cách thức còn nguy hại hơn cả người Nga". Cũng hôm thứ Bảy, Tổng thống Trump viết trên Twitter: "Tất cả những kẻ ngu ngốc đang quá tập trung vào việc chỉ biết nhìn vào Nga nên bắt đầu nhìn sang một hướng khác, đó là Trung Quốc". Thu Phương Có thể bạn quan tâm: | ||
Tổng thống Trump đưa ‘Nước Mỹ vĩ đại trở lại’ trong gần 2 năm nhiệm kỳ Posted: 18 Aug 2018 05:23 PM PDT Ngày 17/8, Tổng thống Donald Trump nói, ông đã hoàn thành khẩu hiệu trong chiến dịch tranh cử – đưa "Nước Mỹ vĩ đại trở lại" chỉ trong gần 2 năm cầm quyền. Ông Trump nhậm chức Tổng thống Mỹ vào ngày 20/1/2017. Đến nay, Tổng thống đã làm được nhiều điều tốt đẹp, thay đổi cho xứ cờ hoa. Lãnh đạo nước Mỹ dẫn chứng điều này trên trang Twitter cá nhân. Hôm 15/8, Thống đốc bang New York Andrew Cuomo của đảng Dân chủ nói rằng, ông không coi Mỹ là một quốc gia vĩ đại vì phụ nữ tiếp tục bị phân biệt đối xử. Ông Cuomo nhấn mạnh, Mỹ sẽ không bao giờ vĩ đại. "Đây là lời đáp lại tuyên bố của Thống đốc New York Andrew Cuomo rằng nước Mỹ không đủ vĩ đại", ông Trump viết. "Tôi đã làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại, chỉ cần nhìn vào thị trường vốn, tỷ lệ thất nghiệp, lực lượng vũ trang và chúng tôi sẽ còn làm tốt hơn nữa". Mới đây, Tổng thống Trump đã thông qua ngân sách quốc phòng Mỹ trong năm 2019 với 716 tỷ USD, tăng 16 tỷ USD so với năm 2018 và tăng tới 82 tỷ USD so với năm 2017. Ông Trump đã chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vào ngày 8/11/2016. Trong chiến dịch tranh cử, ông đã hứa "làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại", "hồi sinh" ngành công nghiệp, tạo ra nhiều việc làm, giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp, thắt chặt chính sách di dân và sửa đổi các hướng đi trong chính sách đối ngoại. Đến nay, ông chủ Nhà Trắng đã mạnh tay "chèo lái con thuyền nước Mỹ theo hướng đi của mình", bất chấp mọi khó khăn, sự khiêu khích và phản đối. Hồng Hạnh |
You are subscribed to email updates from NvPhamvietdao5.blogspot.com: Thế sự-Văn chương. To stop receiving these emails, you may unsubscribe now. | Email delivery powered by Google |
Google, 1600 Amphitheatre Parkway, Mountain View, CA 94043, United States |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét