“Kháng thư phản đối những phiên tòa phi pháp và những hành xử bất nhân của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam” plus 11 more |
- Kháng thư phản đối những phiên tòa phi pháp và những hành xử bất nhân của nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam
- GẠC MA “Vả mõm” Nguyễn Thanh Tuấn(*)
- Bạo lực và sự nhầm tưởng của những viên an ninh
- Sài Gòn kỷ niệm
- Kịch bản nào với Trần Huỳnh Duy Thức?
- Việt Nam trong mạng lưới hải thương châu Á và “Con đường tơ lụa trên biển”
- Văn chương thiếu máu yếu ớt về đề tài “CMT8”
- “Giọt nước mắt thương dân / dân mình phận long đong” (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 50)
- Việt Nam đã cạn nguồn vay ODA từ năm 2014!
- Bối cảnh của khu vực và đòi hỏi của đất nước hôm nay không có chỗ đứng cho 3 đặc khu kinh tế (tham luận)
- Người Công giáo Việt Nam: ghét Trung Quốc lẫn Cộng sản
- VTV buôn đầu chợ bán cuối chợ
Posted: 22 Aug 2018 04:01 PM PDT (Cập nhật chữ ký đợt 1 [22-08-2018]: 27 tổ chức, 75 cá nhân)Kể từ đợt biểu tình chống Luật Đặc khu kinh tế và Luật An ninh mạng vào ngày 10-06-2018, hai giọt nước tràn ly phẫn nộ của nhân dân trước việc Đảng Cộng sản điều hành đất nước cách ngu dốt, quản lý xã hội cách tàn bạo, canh giữ lãnh thổ cách sơ hở, thì sự đàn áp của nhà cầm quyền đã leo thang dữ dội. Cụ thể qua những sự kiện sau đây: I- Sự kiện phi pháp và bất nhân1- Một loạt phiên tòa xử các công dân biểu tình ôn hòa với cáo buộc "gây rối trật tự công cộng" đã mở ra tại Thủ Thừa, Long An (09-07), Sài Gòn (20-07), Biên Hòa, Đồng Nai (30-07), đưa tới phán quyết: từ phạt hành chính hay trục xuất khỏi nước, đến án tù treo hay tù ở từ 8 tháng tới 1 năm rưỡi. Hai công dân ở Bình Dương phát truyền đơn kêu gọi biểu tình cũng đã bị bắt ngày 09-06 và bị khởi tố. Đặc biệt công dân Hứa Hoàng Anh, tỉnh Kiên Giang, chỉ vì tham gia nhiều cuộc biểu tình mà đã bị công an mời làm việc và bị tử thương cách ám muội ngay sau đó hôm 02-08-2018. Đang khi ấy thì Bộ trưởng Công an Tô Lâm, trước Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 13-08, đã cho biết sẽ dẹp tan các cuộc biểu tình trong tương lai, vì cho đó là bất hợp pháp. 2- Sáng ngày 15-08-2918, tại Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An, phiên xử phúc thẩm nhà hoạt động Nguyễn Viết Dũng (bị cáo buộc tuyên truyền chống Nhà nước) đã kết thúc với việc giảm án 12 tháng, còn 6 năm tù giam và 5 năm quản chế. Tuy thế, phiên tòa diễn ra chưa đầy một tiếng rưỡi, người dân tham dự chỉ có thân phụ của bị án. Luật sư Nguyễn Khả Thành, người bào chữa duy nhất cho Nguyễn Viết Dũng và đang ở xa, chỉ được thông báo trước đó 12 tiếng nên đã không thể có mặt ở tòa án. Bị án yêu cầu hoãn phiên xử vì không có luật sư nhưng tòa vẫn ngang nhiên tiến hành. 3- Tối 15-8-2018, buổi trình diễn nhạc vàng của nhạc sĩ Nguyễn Tín tại phòng trà Canasova, quận 3, Sài Gòn, đã bị đàn áp một cách vô cớ và khốc liệt. Hàng trăm công an sắc phục và thường phục (nhiều kẻ bịt mặt), một số bao vây bên ngoài, một số xông vào bên trong, đã buộc rút ngắn buổi trình diễn, đòi kiểm soát giấy tờ và điện thoại của khán giả. Rồi lấy cớ không xin phép biểu diễn, vi phạm bản quyền, công an đã tấn công hai nhân vật tổ chức chủ chốt là các anh Nguyễn Tín, Nguyễn Đại và một khán giả đặc biệt là cô Phạm Đoan Trang. Họ đã bị thẩm vấn, đánh đập toàn thân nhiều lần, bị tước đoạt máy tính, điện thoại, tiền bạc, thẻ tín dụng, giấy tờ tùy thân, còn bị chở đi xa và tống xuống đường giữa đêm khuya khoắt và nơi xa lạ. Cô Đoan Trang sau đó phải vào bệnh viện. Hành vi bạo lực vô cớ này của công an thành Hồ tiếp nối những đòn tra tấn dã man các công dân bị nghi biểu tình rồi bị bắt về trại giam dã chiến ở Sân Tao Đàn ngày 17-06-2018. 4- Ngày 16-08-2018, Tòa án Nhân dân tỉnh Nghệ An đã mở một phiên tòa chóng vánh, xét xử ông Lê Đình Lượng, với cáo buộc "hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân" rồi tuyên án với mức gần kịch trần: 20 năm tù giam. Lý cớ của tòa là ông Lê Đình Lượng (1) đã dùng trang Facebook của mình để cùng với nhiều người phê bình chế độ, bêu xấu nhà nước, chống đối sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, (2) có liên hệ với Việt Tân, một chính đảng dân chủ ôn hòa tại hải ngoại nhưng luôn bị nhà cầm quyền cho là một tổ chức khủng bố. Phiên tòa có sự tham dự của hai "nhân chứng kết tội" đang ở tù là anh Nguyễn Văn Hóa và anh Nguyễn Viết Dũng. Hai nhân chứng này đã hoàn toàn phản cung trước tòa, nói rằng họ đã bị nhục hình và bức cung để gán tội cho ông Lượng. Hai người này đã lập tức bị đem đi để khỏi trả lời chất vấn của các luật sư biện hộ. Ông Lê Đình Lượng là một cựu chiến binh, từng chống đối nạn lạm quyền của cán bộ địa phương, nạn lạm thu học phí tại nhiều nhà trường, từng đồng hành cùng các nạn nhân khiếu kiện đòi bồi thường thỏa đáng trong thảm họa môi trường biển do Formosa gây ra ở 4 tỉnh miền Trung. 5- Sáng ngày 18-08, qua điện thoại từ trại giam Gia Trung, tỉnh Gia Lai, tù nhân lương tâm Trần Thị Nga (án 9 năm vì "tuyên truyền chống nhà nước") cho chồng là Phan Văn Phong (ở Hà Nội) biết thời gian qua, bà liên tục bị đánh và dọa giết. Sau khi bị chuyển đi xa nhà hơn 1000 km, nay bà bị giam chung với một nữ phạm nhân hình sự đầu gấu từng hành hạ nhiều nữ tù nhân lương tâm. Tháng 07 mới đây, tù nhân lương tâm Nguyễn Ngọc Như Quỳnh (án 10 năm cũng vì "tuyên truyền chống nhà nước) đã kiên cường tuyệt thực trong thời gian hơn 16 ngày nhằm phản đối những hành vi khủng bố đối với bà của trại giam số 05, Yên Định, Thanh Hóa, nơi bà bị chuyển đi xa nhà hơn 1100 km). Bà đã liên tục bị tra tấn và ngược đãi bởi các tù nhân hình sự theo lệnh giám thị trại. Ngày 19-08, gia đình tù nhân lương tâm Trần Huỳnh Duy Thức (án 16 năm vì "hoạt động lật đổ chính quyền nhân dân") đến Trại giam số 6 Nghệ An, nơi ông bị chuyển xa nhà hơn 1300 km, để thăm viếng như thường lệ, thì biết ông đã tuyệt thực kể từ hôm 14-08, nhằm phản đối an ninh đang dùng nhiều biện pháp cưỡng bức ông nhận tội để được đặc xá. II- Nhận định và tuyên bố:Từ những sự kiện phi pháp và bất nhân nói trên, các tổ chức và cá nhân ký tên dưới đây đồng thanh tuyên bố: 1- Biểu tình bất bạo động là quyền con người và quyền công dân, được Hiến pháp quốc gia cũng như Công ước Quốc tế thừa nhận. Không thể lấy cớ chưa có Luật biểu tình để cho rằng xuống đường đòi nhân quyền và dân chủ là phạm pháp, cần phải trấn áp, giam giữ và xử tù. 2- Những phiên tòa xử tù nhân lương tâm cách chóng vánh, cấm cản hay giới hạn thân nhân tham dự, bất cần sự hiện diện hay sự biện luận của luật sư bào chữa, bỏ qua việc đối chất chứng từ và xem xét chứng vật, kết tội chống lại một thực thể không hề có là "chính quyền nhân dân", giáng những bản án ngày càng nặng cho các bị cáo… Đó là một cách thức giễu cợt luật pháp, coi thường nhân dân và thách thức quốc tế. 3- Chủ trương khủng bố bằng bạo lực vũ khí như cấm cản, hành hung, tước đoạt, giam giữ vì những lý do vu vơ, những nghi ngờ vô bằng cớ… hay bằng bạo lực hành chính như ra những luật lệ trói tay, bịt miệng quốc dân, tạo cơ hội thuận lợi cho quốc thù… chẳng những không làm cho nhân dân sợ hãi, còn khiến tích tụ sự phẫn uất của quần chúng, chẳng những không ổn định xã hội, mà còn làm yếu nhược Tổ quốc, chẳng những không làm tăng sức mạnh của luật pháp, mà còn làm giảm tính chính danh của nhà cầm quyền. 4- Đối xử khắc nghiệt với các tù nhân lương tâm nhằm bẻ gãy ý chí họ, buộc họ nhận tội, hay nhằm tàn hại thân xác họ, khiến họ tổn thọ… Đó là dấu chỉ của một nhà cầm quyền vừa bất công về mặt chính trị, vừa bất nhân về mặt đạo đức. 5- Không có chế độ nào xây trên bạo lực mà tồn tại dài lâu và không có hành vi nào làm do ác tâm mà chẳng tạo nghiệp quả. Đừng tưởng nắm quyền lực tuyệt đối sẽ ung dung hành xử bất cần lề luật, sẽ chẳng hề hấn gì khi cởi bỏ Hiến pháp. Cộng sản nên nhớ mình đang tự làm dài bản cáo trạng và làm dày hồ sơ tội ác của đảng. Làm tại Việt Nam ngày 21 tháng 08 năm 2018 Các tổ chức đồng ký tên (đợt 1)
Các cá nhân đồng ký tên (đợt 1)
|
GẠC MA “Vả mõm” Nguyễn Thanh Tuấn(*) Posted: 22 Aug 2018 03:57 PM PDT Phan Trí Đỉnh(thương binh chiến trường Quảng Trị năm 1972) Có bạn cho tôi xem bài viết của Trung tướng Nguyễn Thanh Tuấn, trong đó có những dòng chỉ trích, bôi nhọ tôi như sau: "…Có thể khẳng định một cách chính xác Đỉnh và những kẽ như ông thực chất là bọn đồng loã với đám trở cờ chống Đảng …''. Thưa ông Trung tướng, ông nói một nửa sự thật thì không phải là sự thật vậy mong ông hãy chịu khó đọc kỹ những gì tôi viết sau đây để phản bác ông. Ông hãy nghiên cứu có hệ thống các tài liệu đã công khai bấy lâu rồi sử dụng tư duy LÀNH MẠNH để tự mình kết luận nhé: 1/ Nội dung hồi ký của vị Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, ông Trần Quang Cơ. Người từng có 44 năm công tác trong Bộ này và được BCT giao rất nhiều nhiệm vụ tối quan trọng. 2/ Tổng kết của Bộ Tổng tham mưu về những sai lầm khuyết điểm của quân đội trong chiến tranh Trung - Việt và chiến dịch bảo vệ Gạc Ma (có ảnh chụp kèm theo ở cuối bài). 3/ Nội dung bài phát biểu của ông Lê Đức Anh tại Trường Sa ngày 7/51988. Ngay sau khi giặc TQ đánh chiếm Gạc Ma và thảm sát 64 chiến sỹ HQ lại có những nội dung "lạ lùng, đặc biệt, khó tin" trong bối cảnh toàn dân, toàn quân đang ngút trời căm hận (http://vietnamnet.vn/vn/tuanvietnam/tieudiem/loi-the-cua-dai-tuong-le-duc-anh-o-truong-sa-nam-1988-435629.html) 4/ Nội dung đoạn trích của cuốn Lịch sử Quân chủng Hải quân khẳng định rõ có phương án tác chiến "Không nổ súng nhưng quyết tâm giữ đảo" (có ảnh chụp kèm theo ở cuối bài - trang 383)(**). 5/ Nội dung một bài báo đăng trên tờ Nhân Dân từ 1988 có tường thuật rất cụ thể cách đ/c Thiếu tá Trần Đức Thông Lữ đoàn phó Lữ 146 truyền đạt mệnh lệnh "Không được nổ súng" TRỰC TIẾP tới cán bộ chiến sỹ khi sắp xảy ra sự kiện giặc TQ nổ súng tấn công (có ảnh chụp kèm theo ở cuối bài). Xin các bạn chú ý: Trước đó BCH đã có cuộc họp khẩn trên tàu 604 để quán triệt phương án tác chiến "Không nổ súng nhưng quyết tâm giữ đảo". Khi sắp nổ ra sự kiện thì Thiếu tá Trần Đức Thông trực tiếp đứng trước mũi tàu quát to mệnh lệnh "Không được nổ súng khi chưa có lệnh của tôi". Điều này góp phần giải thích tại sao có chiến sỹ nghe rõ lệnh (ví dụ anh Thống, anh Lanh…) lại có chiến sỹ không biết có lệnh (Anh Lê Hữu Thảo chẳng hạn). 6/ Không phải là ngẫu nhiên mà một Hội đồng Thẩm định Quốc gia đã được thành lập dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban TGTW và Ban Bí thư TW để làm "bà đỡ" cho cuốn sách này! Về chi tiết lệnh "Không nổ súng"… không có ai trong tất cả những người có trách nhiệm rất cao trước Đảng, trước Dân thắc mắc thì tất yếu phải là "có lý" (!?). Còn Ban TGTW chịu sự lãnh đạo trực tiếp của AI trong Ban Bí thư có lẽ khỏi cần nói thì bất cứ ai có kiến thức cơ bản về tổ chức bộ máy Đảng đều rõ (!?). Xin đừng bẻ hoe tranh cãi kiểu con nít ở đây về điều này. Không hay ho gì đâu. Với chừng ấy tài liệu mang tính lịch sử vì nó được viết từ trước khi nổ ra các cuộc tranh cãi rất vô lý này thì bất cứ ai có TƯ DUY LÀNH MẠNH và có ít nhiều hiểu biết về đặc thù chính trị nước nhà đều có thể tự mình rút ra kết luận mà không cần phải phụ thuộc vào sự thuyết phục hay "định hướng" của người khác! Trên đây, tôi chỉ đơn thuần nêu ra các tài liệu chính thống đã được công khai hoặc tài liệu tuy không chính thống nhưng được thuật lại từ một vị lãnh đạo cấp cao trong ngành ngoại giao được công bố từ lâu mà chưa từng một ai có tầm vóc ngang ngửa như ông dám phản biện. Ngoài những tài liệu có giá trị như trên còn rất nhiều tài liệu không chính thống nhưng có tính KHẢ TÍN rất cao cũng góp phần đưa ta tới một kết luận Duy Nhất Đúng! Tôi luôn tin chắc rằng: Một khi lãnh đạo Đảng đã chỉ thị cho TGTW chuẩn y một việc gì liên quan đến lịch sử thì tất yếu phải có mục đích chính trị sâu xa và tất yếu là có lý! Do đó chúng ta phải tự Nghiêm Túc đặt ra câu hỏi: Tại sao lại có một vài sỹ quan cao cấp (tuy chỉ là Tướng hạng B hạng C có rất ít uy tín và ảnh hưởng trong QĐ) đã nghỉ hưu, được vài nhóm DLV dẫn dắt một số hội "thanh niên yêu nước" "thanh niên cờ đỏ" tự phát "tiền hô hậu ủng" hò reo cổ vũ bằng những giọng điệu cực đoan kiểu Hồng vệ binh TQ cứ CỐ Ý làm như không hiểu nguyên tắc cơ bản trên để lên giọng "trung kiên cách mạng" ra sức phỉ báng, đả kích bừa bãi các cá nhân có liên quan đến tập sách này?! Họ bất chấp một thực tế ai cũng biết rõ: Cuốn sách ra đời luôn có sự đồng hành của nhiều vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước trong quá khứ và đương nhiệm! Không thể tin rằng họ không hiểu đả kích, chụp mũ, phỉ báng các cá nhân làm sách "trở cờ, phản động" (!?) cũng tức là đả kích, chụp mũ lãnh đạo Ban TGTW và cao hơn, nguy hiểm thâm độc hơn là đả kích chính diện "người ĐỨNG ĐẦU Ban Bí thư" luôn mặc định được TW phân công trực tiếp chỉ đạo lĩnh vực tư tưởng cũng là "trở cờ theo giặc" hay sao? Hãy chứng tỏ rằng mình là người có suy nghĩ lành mạnh, tư duy đúng đắn, được học hành bài bản, đã giữ những cương vị đầy trách nhiệm trước đảng, trước nhân dân? ------ P/S: Cũng tướng, có tướng biết đau xót, day dứt khi lính hy sinh bi tráng, biết đặt lợi ích đất nước, nhân dân lên trên hết. Lại có tướng chỉ nghĩ đến cái lon, xem mạng lính là những nấc thang tiền tài danh vọng. Đất nước, nhân dân chẳng là gì với chúng. Lê Đức Anh, Nguyễn Thanh Tuấn, Hoàng Kiền, Võ Tiến Trung… thuộc loại nào? Chỉ ít ngày sau vụ thảm sát Gạc Ma, Lê Đức Anh đã tri ân TQ, không hề nhắc đến 64 liệt sĩ trong diễn văn (diễn kịch) đọc tại Trường Sa. 1990, y lén lút tiếp xúc Đại sứ Tàu Trương Đức Duy để "dò đá qua sông" cho bè lũ Lê Chiêu Thống sang Thành Đô (9/1990) xin quân bành trướng khát máu bảo kê ngai vàng, giam hãm đất nước, nhân dân dưới ách CS độc tài hắc ám, tụt hậu.
P.T.Đ. __________ Chú thích:(*) Đầu đề do Võ Văn Tạo đặt. (**) Chỗ này những ai không hiểu hoặc CỐ TÌNH GIẢ VỜ KHÔNG HIỂU công tác chỉ huy một chiến dịch cực kỳ quan trọng thì cứ đổ vấy cho Thiếu tá Thông chỉ huy tại chỗ trên tàu 604. Tất cả những ai đã từng là sỹ quan chỉ huy cấp Tiểu đoàn trở lên đều đủ kiến thức để hiểu rõ phương án tác chiến này phải được xây dựng từ cấp Quân chủng trên cơ sở các chỉ đạo từ Bộ Tổng TM và phải được cấp rất cao phê duyệt. Đây là điều miễn tranh cãi vì tranh cãi là thể hiện sự tột cùng lố bich và ngu xuẩn! (Nội dung tài liệu này cũng đã được rất nhiều độc giả đưa lên nên tôi không giới thiệu nữa) - Nguyên chú của tác giả. Nguồn: FB Đức Bảo Phạm |
Bạo lực và sự nhầm tưởng của những viên an ninh Posted: 22 Aug 2018 03:53 PM PDT Ánh Liên Khi các 'đồng chí cảnh sát - an ninh' áp dụng các thủ đoạn khác nhau, kể cả bạo lực để ngăn chặn mục tiêu của một người hoặc một nhóm người biểu tình, họ không nghĩ rằng, họ đang đẩy đến giới hạn của bạo lực. Việt Nam là một đất nước yêu chuộng hoà bình? Quan điểm này được khắc hoạ trong hầu hết các cuốn sách giáo khoa về lịch sử, nhưng một dân tộc chuộng hoà bình không đồng nghĩa với sự hiếu chiến giảm đi. Thực ra, hoà bình của dân tộc Việt Nam có thể được khắc hoạ bằng câu nói: muốn có hoà bình, phải luôn chuẩn bị chiến tranh. Kể từ khi lập quốc đến nay, nếu tính 10 đầu ngón tay, thì thời gian hoà bình của Việt Nam chỉ vỏn vẹn 2-3 ngón, còn lại hầu hết là tình trạng chiến tranh liên tục, trong đó có cả nội chiến lẫn ngoại chiến. Miền Bắc - nơi giữ lại hương vị truyền thống của nhà nước Đại Việt, cũng là nơi chứng kiến hàng tá lễ hội khác nhau mang màu sắc bạo lực. Bạo lực lời nói, cho đến bạo lực cả trong không gian lễ, sự giành giật, cướp, đâm chém diễn ra như một lệ tục của dân tộc, và ở chừng mực nào đó, nó khắc hoạ một thứ gì đó rừng rú - không còn hợp thời. Nhưng không dừng tại đó, mà cụ thể hơn, hầu hết người Việt Nam chứa đựng một dòng máu rất nóng, nóng đến mức độ 'hở ra là đâm chém, giết chóc'. Trong lăng kính của xã hội bình dân xoay quanh hành vi 'nhậu' cũng diễn biến một cách bạo lực: nhậu trả tiền cũng chết, nhậu không trả tiền cũng chết, không nhậu cũng chết, và nhậu cũng chết. Dòng máu bạo lực chỉ được kiềm chế chứ không triệt tiêu, bằng ý thức và trí thức. Nhưng con số này là vô cùng hiếm. Trong một hoạt động đám đông, chỉ cần một kích động nhỏ, sẽ nhanh chóng bùng phát thành một cuộc bạo loạn lớn. Và nếu thiếu sự ôn hoà diễn giải, kiềm chế, thì đổ máu là tất yếu xảy ra sau khi đám đông trở nên hung hãn.
Ảnh minh hoạ. Nhưng câu chuyện ở đây là gì? Đó chính là quyền biểu tình và những người ôn hoà cũng như sự gìn giữ tính ôn hoà đó trong chính cộng đồng, xã hội Việt Nam. Cụ thể hơn, bấy lâu nay, dù không ban hành Luật biểu tình do lo ngại ý thức dân chưa cao, nhạy cảm hay hàng tá lý do khác. Nhưng quyền biểu tình vẫn được diễn ra như một hệ thức được công nhận trong bản Hiến pháp. Vấn đề giữa bất hợp pháp và hợp pháp chỉ diễn ra khi mà biểu tình ôn hoà bùng phát thành một cuộc bạo loạn. Và do đó, sự kiềm chế của nhóm người biểu tình ôn hoà được xem như khoá then chốt để đoàn biểu tình thực sự biểu thị quyền của mình trong hướng dẫn của pháp luật. Tuy nhiên, phía chính quyền không nghĩ vậy. Thường thì họ sẽ cho công an mặc thường phục trà trộn vào kích động, hay dựng nên một nhóm biểu tình kích động để đẩy cuộc biểu tình đi đến hành vi bạo lực. Trong quá trình này, họ tìm cách khoá chặt, hoặc kích động bạo lực đối với người biểu tình ôn hoà, kể cả tấn công vật lý. Vấn đề là, những người biểu tình ôn hoà nằm trong một đám đông thực sự là giá trị cốt lõi cần phải được gìn giữ. Bởi nếu không gìn giữ mà liên tục tấn công, thì chẳng mấy chốc nhóm người vốn đã rất nhỏ này sẽ hoà vào trong dòng chảy bạo lực lớn, trong sự tấn công bạo lực liên tục của nhóm đến từ chính quyền. Mục tiêu vẫn là trấn áp. Tất nhiên, phía chính quyền sẽ đạt được mục đích đó. Nhưng trần áp là hành vi sử dụng bạo lực lên trên bạo lực để kiềm chế bạo lực. Tuy nhiên, nó cũng có tác dụng phụ là làm gia tăng yếu tố bạo lực trong các đối tượng lên một một tiêu mới. Thực tế cho thấy, những vụ xô xát hay thậm chí là bạo lực giữa người dân với nhà nước ngày cả gia tăng, về cả hai phía. Người dân vốn dĩ chứa đựng một thùng dầu truyền thống bạo lực bên trong, nay nếu được kích thắp, sẽ bùng lên để họ thực thi công lý của mình. Nhóm tội trạng khủng bố tưởng chừng như bám bụi trong Bộ Luật Hình sự nay lại được sử dụng trong thời gian gần đây. Và cụ thể hơn là việc sử dụng này áp dụng cho các đối tượng tiến hành các hoạt động liên quan đến bom hay chất gây cháy diện rộng. Nhưng người được tuyên bố là 'kẻ khủng bố', rất trẻ. Nhưng những người 'khủng bố' này dù có đi chăng nữa thì cũng là một sản phẩm của một xã hội bạo lực, của nền chuyên chính bạo lực vũ trang để bắt dân nghe lời. Nếu đặt một vị an ninh có những hành vi gây phản cảm, đi ngược giá trị nhân quyền, sử dụng bạo lực hành vi lẫn lời nói để gây ức chế, khiếp sợ, nắm tâm lý đối tượng. Thì ngay từ lúc đó, hoặc đó là sự sợ hãi, hoặc đó sẽ là nuôi mầm bạo lực bên trong và chờ đến một lúc họ sẽ trả thù trở lại. Những hành vi diễn ra trong xã hội chưa thấy nhiều, nhưng những video mà lực lượng vũ trang (chủ yếu là công an) ghi lại cảnh đánh đập dân thì theo sau màn đánh đập đó, là những phản hồi không kém phần khác máu, mà đối tượng 'bị treo cổ' là những viên công an vốn sử dụng quyền lực trước đó. Vấn đề các viên công an không hình dung được tác dụng nuôi mầm bạo lực, bởi nghiệp vụ họ chỉ dạy nó 'khắc chế' chứ không phản hệ lại những gì họ học. Cuối cùng, về mặt vô hình, họ trở thành tầm ngắm của những nhóm người ưa bạo lực. Sói cứ tưởng săn thợ, nhưng sói mới thực chất bị săn. Các công an viên chưa đối diện với mức độ tác động cao như đốt nhà, bắt cóc, gây thương tịch... nhưng những mầm mống bạo lực đời đầu thông qua biểu cảm vui mừng, kích động,... khi một công an viên bị tai nạn và chết lại chính là biểu hiện đặc sắc của bạo lực dưới dạng không hành động. Bạo lực, thậm chí đặt 2 bên vào thế đối lập (như lời viên an ninh ngăn cản nhóm người đến thăm TS Hà Sĩ Phu trong ngày 9.8.2018 - 'Tôi du côn đấy, làm gì nhau') là một trong những cách tự sát nhanh nhất trong tương lai. Bởi nó đặt 2 phía rơi vào không gian không còn gì để mất. [https://www.facebook.com/2007003122645713] Nhưng công an viên vẫn vui tươi, họ tin vào quyền lực họ đang nắm. Điều kỳ lạ thay, cách họ nắm quyền lực lại làm gia tăng sự mất quyền lực của họ khi con số 'máu điên' tăng trưởng theo cấp số nhân trong những thời gian. Và họ vẫn cười, vẫn nhầm tưởng và vẫn làm bạo lực như chưa từng bước. Họ hả hê khi bức người ôn hoà trở nên thiếu kiềm chế, nhưng họ đồng thời đang đóng búa vào thanh thép được nung nóng, và đến lúc sẽ thành một mũi kiếm. Vấn đề đặt ra, công an viên có thực sự ý thức và thay đổi nó? A.L. VNTB gửi BVN. |
Posted: 22 Aug 2018 03:51 PM PDT Nguyễn Lân Thắng (19/8/2018)
Đêm ngày 15/8/2018 cả Sài Gòn náo loạn vì một buổi ca nhạc. Đó là buổi biểu diễn mini của ca sĩ Nguyễn Tín và những người bạn mang tên Sài Gòn Kỷ Niệm tại quán cafe Casanova ngay trung tâm thành phố. Nguyễn Tín sinh năm 1990, người Cần Thơ, vốn không hề được đào tạo thanh nhạc bài bản. Vì tham gia các hoạt động xã hội, đi biểu tình chống Formosa gây ô nhiễm, nên Tín từ lâu đã bị lực lượng an ninh quấy phá công việc mưu sinh ở Cần Thơ, phải bỏ lên Sài Gòn để tìm công việc tạm bợ khác mà sống. Trong quá trình vất vả đó, Tín làm đủ thứ, từ bán hàng online, cho đến việc dùng giọng ca vốn có để đi hát cho các phòng trà ca nhạc mini. Nhưng những công việc đó cũng không hề đơn giản cho Tín, rất nhiều lần bị phá, bởi anh không chỉ kiếm tiền để mưu sinh mà còn dành một phần rất lớn thu nhập để gửi nuôi những đứa con của hai tù nhân chính trị nổi tiếng là Trần Thị Nga và Nguyễn Ngọc Như Quỳnh. Rất may mắn cho Tín là những việc làm đó đã chạm đến trái tim của rất nhiều người không thờ ơ với đất nước. Những buổi livestream vừa bán hàng online, vừa hát nhạc xưa trên facebook của Tín luôn có hàng trăm người hâm mộ ở khắp mọi nơi theo dõi. Nổi tiếng nhất có lẽ là clip Tín hát bài "Tiền Giang Đông - Tiền Giang Tây", do Đinh Nhật Uy chế lời từ bài "Trường Sơn Đông - Trường Sơn Tây". Đây là bài hát rất vui nhộn, nhẹ nhàng đả kích các vấn đề xã hội xung quanh vụ BOT Cai Lậy, và được cánh lái xe Bạn Hữu Đường Xa khắp nơi ưa thích. Mến mộ tinh thần và những công việc Tín đã làm, một nhóm bạn hữu ở Sài Gòn, trong đó có kỹ sư Nguyễn Đại và nhà báo Phạm Đoan Trang đã quyết định tổ chức một đêm ca nhạc cho Tín. Đêm ca nhạc này chỉ mời hạn chế rất ít những người bấy lâu nay vẫn âm thầm tham gia hay gián tiếp ủng hộ phong trào đấu tranh. Tôi tình cờ có mặt ở Sài Gòn trong dịp này và rất vinh dự được Tín mời đến tham gia. Khỏi phải nói là lực lượng an ninh thành phố HCM đã đau đầu thế nào, bởi lời mời gọi thì được công khai trên mạng, thành phần tham dự thì toàn những người "không hiền", nhưng họ không thể biết được địa điểm ở đâu. Dự cảm được những bất trắc có thể xảy ra, tôi đã bỏ thời gian vài tiếng đồng hồ trước buổi diễn, đi loanh quanh khắp nơi để cắt đuôi nếu có. Như các bạn đã biết, do bất cẩn nên một trong các khách mời khá nổi tiếng hôm đó đã có đuôi đi theo. Buổi diễn bị cắt ngang, khách mời bị hạch sách xét hỏi giấy tờ, Nguyễn Tín, Đoan Trang và Nguyễn Đại bị đánh đập tơi bời… tất cả sự việc được các hãng truyền thông như BBC, RFA... đưa tin rất tỉ mỉ mấy ngày nay. Là người trực tiếp tham dự, tôi thấy ấn tượng nhất là bản lĩnh của Tín và những người bạn thể hiện trong đêm nhạc này. Hôm đó khi sân khấu vừa nổi nhạc ít phút, 50 khán giả đang say sưa quay vào trong nghe những lời ca tiếng hát thì ngoài cửa xuất hiện lố nhố công an, dân phòng và hàng chục tên côn đồ mặt bịt khẩu trang vây ráp khoá chặt bên ngoài. Tín biết điều đó. Các nhạc công biết điều đó. Và những người tổ chức cũng hoàn toàn biết điều đó. Nhưng tiếng hát của Tín vẫn vút lên mượt mà qua nhiều bài hát mà không hề có một lần vấp váp. Chỉ đến khi kẻ phá đám vào áp lực được với chủ quán cafe Casanova thì Tín và các bạn mới buộc phải dừng buổi biểu diễn này lại. Máu đã chảy. Điện thoại đã bị đập. Tiền bạc giấy tờ đã bị cướp. Nhưng cho tôi xin nói với Tín và tất cả các bạn có mặt ở quán Casanova đêm ấy một điều này: "Cái gì không giết được ta thì sẽ làm cho ta mạnh mẽ hơn!". Đây không chỉ đơn thuần là một câu thành ngữ nhằm khuyến khích con người vượt qua khó khăn, mà nó còn là một điều được các nhà khoa học chứng minh bằng thí nghiệm nghiêm túc. Người ta cho những con giun đất vào một môi trường nhiệt độ cao trong một khoảng thời gian. Con nào cũng được đánh dấu. Một lúc sau, những con nào còn sống sót lại được trộn lẫn với những con giun mới và đem bỏ tiếp vào nơi nhiệt độ cao. Người ta quan sát thấy những con giun nào đã vượt qua lần thí nghiệm thứ nhất sẽ có khả năng sống sót cao hơn hẳn trong lần thí nghiệm thứ hai. Vết thương trên mặt Tín, Trang, Đại rồi sẽ lành. Vết đau trong tâm hồn những người tham dự đêm ca nhạc vỡ nát ấy rồi sẽ lại trở thành kỷ niệm. Nhưng tất cả những trải nghiệm kinh hoàng trong cái đêm hôm đó đã không giết được chúng ta, và chúng ta, những người yêu tự do, khát khao dân chủ, mong mỏi nhân quyền... chúng ta sẽ ngày càng mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn, bản lĩnh hơn, để có ngày nhất tề đứng lên giành lấy những giá trị mà dân tộc này, đất nước này xứng đáng được hưởng. Anh rất khâm phục em Tín ơi! Yêu thương tất cả mọi người! N.L.T. Nguồn: https://www.facebook.com/photo.php?fbid=10156544461798808&set=a.371777483807&type=3 |
Kịch bản nào với Trần Huỳnh Duy Thức? Posted: 22 Aug 2018 03:49 PM PDT Phạm Chí Dũng
Ông Trần Huỳnh Duy Thức. Khác với thái độ kênh kiệu cường quyền trước đây, dường như trong nội bộ giới chóp bu và công an trị Việt Nam từ cuối tháng Bảy năm 2018 đến nay đã diễn biến một cuộc đấu tranh tư tưởng 50/50: Thả hay không thả Trần Huỳnh Duy Thức? Vì sao công an thúc ép 'nhận tội'?Trần Huỳnh Duy Thức được nhiều người biết như một nhà đấu tranh dân chủ kiên cường, đã ở tù cộng sản được 9 năm trong cái án tù giam khủng khiếp 16 năm mà chế độ không hề chấp nhận đa nguyên đa đảng đã dành cho anh với lý cớ 'lật đổ chính quyền'. "Có đặc xá anh cũng không chấp nhận bởi vì đơn giản anh không có tội. Anh không bao giờ chấp nhận đặc xá, không bao giờ. Không chờ đợi hay xin xỏ gì hết. Ở hết án, rục xương cũng được, nhưng dứt khoát không cần đặc xá" - Trần Huỳnh Duy Thức nói với vợ anh và người em là Trần Huỳnh Duy Tân trong lần gia đình thăm gặp anh gần đây nhất ở nhà tù Nghệ An, được nhà hoạt động nhân quyền Lê Công Định thông tin cho cộng đồng mạng. Một lần nữa trong nhiều lần, gia đình Trần Huỳnh Duy Thức chứng kiến anh rất mệt và yếu do đã tuyệt thực 5 ngày, kể từ 14/8/2018. Lý do tuyệt thực là phía an ninh đang muốn gây áp lực buộc anh Thức nhận tội để được đặc xá. Chỉ còn ít hôm nữa là đến ngày 2/9 - Quốc khánh Việt Nam… Vì sao công an lại cố ép Trần Huỳnh Duy Thức 'nhận tội' để được đặc xá, khi vào đầu tháng Tám năm 2018 Tổng cục 8 (Tổng cục Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp) của Bộ Công an đã có văn bản trả lời luật sư Ngô Ngọc Trai - người thường xuyên lên tiếng đề nghị chính quyền đặc xá và trả tự do cho Thức: "Hiện nay Nhà nước ta chưa có chủ trương đặc xá năm 2018 nên không có căn cứ để xem xét, đề nghị đặc xá cho phạm nhân Trần Huỳnh Duy Thức"? Và vì sao công an vẫn cố ép Trần Huỳnh Duy Thức 'nhận tội' khi họ thừa biết Thức ngoan cường đến thế nào khi từ nhiều năm qua đã không những không chịu nhận tội mà còn từ chối mọi đề nghị của Hoa Kỳ và Liên minh châu Âu để đi tị nạn chính trị ở nước ngoài? Kinh nghiệm bị 'tống xuất'Theo kinh nghiệm của những tù nhân lương tâm đã bị chính quyền Việt Nam tống xuất ra nước ngoài như blogger Điếu Cày Nguyễn Văn Hải (năm 2014), blogger Tạ Phong Tần (năm 2015) và gần đây nhất vào tháng Sáu năm 2018 là luật sư nhân quyền Nguyễn Văn Đài, nhà cầm quyền Việt Nam rất thường mang những nhà hoạt động nhân quyền đang phải thụ án tù giam lâu năm ra để mặc cả và đổi chác với Mỹ và cả Đức sau này lấy những lợi ích về thương mại và viện trợ (Hiệp định Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - châu Âu (EVFTA)). Cứ vài ba tháng, những quan chức an ninh của Bộ Công an lại vào trại giam 'thăm' tù chính trị và gợi ý để họ chấp nhận nhận tội và được đi nước ngoài dưới dạng 'chữa bệnh'. Thậm chí một chính quyền được xem là 'chính danh' ở Việt Nam rốt cuộc đã chẳng cần quan tâm đến việc đối tượng tù nhân dùng để mặc cả thương mại không chịu nhận tội và cũng chẳng chịu đi tị nạn chính trị ở nước ngoài, mà thi hành luôn chế độ cưỡng bức họ phải đi. Vậy là vào một đêm tối trời tháng Mười năm 2014, tù nhân lương tâm Điếu Cày Nguyễn Văn Hải bất thần bị công an dựng dậy ở nhà tù Nghệ An, với hành trang chỉ là đôi dép tổ ong mòn vẹt nổi tiếng của các trại tù Việt Nam, bị áp giải tới sân bay quốc tế Nội Bài và bị tống xuất thẳng sang Hoa Kỳ. Và một đêm 7 tháng Sáu năm 2018, tù nhân lương tâm được cộng đồng quốc tế và các tổ chức nhân quyền đặc biệt quan tâm là luật sư Nguyễn Văn Đài, cùng nữ cộng sự của ông là Lê Thị Thu Hà, cũng đã bị nhà cầm quyền và công an Việt Nam tống xuất ra nước ngoài, nhưng không phải đi Mỹ mà là đi Đức. Tuy nhiên vào tháng Sáu trên đã không có tin tức gì về Trần Huỳnh Duy Thức được đặc xá, dù luật sư Ngô Ngọc Trai đã lập hồ sơ đề nghị đặc xác cho Trần Huỳnh Duy Thức gửi hầu hết cơ quan chính quyền từ sau Tết Nguyên đán năm 2018. Mãi đến gần đây, sau một số lần gửi thư đề nghị và yêu cầu được hồi âm, luật sư Trai mới nhận được văn bản trả lời của Viện kiểm sát tối cao, Văn phòng Chính phủ và gần đây nhất là Bộ Công an - tất cả đều 'nhà nước ta chưa có chủ trương đặc xá…'. Tuy trả lời theo cách trên, nhưng một nghi ngờ không thể bỏ qua là thái độ nằng nặc của an ninh Việt Nam ép Trần Huỳnh Duy Thức phải nhận tội, như thể phía công an đang phải tiến hành một động tác cấp bách, chịu sức ép về thời gian và nhắm tới một mục đích ẩn giấu nào đó. Mục đích đó, nếu có, là cái gì? Lại 'đổi nhân quyền lấy thương mại'Nếu liên tưởng với trường hợp bị tống xuất gần đây nhất là Nguyễn Văn Đài, chẳng khó để nhận ra là một lần nữa từ sau hai năm 2013 và 2014 dùng chiến thuật 'đổi tù nhân chính trị lấy TPP', vào năm 2018 này giới chóp bu Việt Nam lại mang cái kho đầy ắp người bất đồng chính kiến bị tống giam ra đổi chác EVFTA. Trong khoảng thời gian này, lợi ích và cũng là hy vọng tiền bạc duy nhất của chính thể Việt Nam là EVFTA, ngoài ra không có gì khác. Vào đầu tháng Sáu năm 2018, chính tờ Nhật báo Frankfurt Phổ thông (Frankfurter Allgemeine Zeitung - FAZ) của Đức đã tiết lộ cái chiến thuật trên của chính thể độc đảng Việt Nam: Trịnh Xuân Thanh - người bị mật vụ Việt Nam bắt cóc tại Berlin vào tháng Bảy năm 2017 - sẽ được trả tự do "trong thời gian tới đây". Dựa trên nhiều nguồn tin, tờ nhật báo này nói rằng chính phủ Hà Hội đã cam kết với nước Đức sẽ cho phép Trịnh Xuân Thanh xuất cảnh sang nước Cộng Hòa Liên bang Đức sau khi vụ xét xử một người giúp đỡ bắt cóc ở Berlin đi đến kết thúc. Cũng theo thông tin của nhật báo này, một phần của sự nhượng bộ từ phía Việt Nam cũng là việc trả tự do cho luật sư Nguyễn Văn Đài. Với những vụ trả tự do như thế, Hà Nội hy vọng sẽ cải thiện được quan hệ kinh tế với nước Đức và EU, báo FAZ tường thuật. Đại diện EU cũng nói với Hà Nội rằng việc phê chuẩn Hiệp định Thương mại Tự do với Việt Nam vào đầu năm 2019 sẽ phụ thuộc vào sự chấp thuận của Đức trong Hội đồng châu Âu. Thuộc vào trong số những nhượng bộ về ngoại giao của Việt Nam cũng là việc cải thiện những điều kiện giam giữ cho các tù nhân chính trị khác… Đến gần cuối tháng Bảy năm 2018, tình cảnh xảy đến với những kẻ bắt cóc Trịnh Xuân Thanh còn khốn khó hơn nhiều: phiên tòa của Tòa Thượng thẩm Berlin xử Nguyễn Hải Long - một nghi can tham gia vào đường dây bắt cóc Trịnh Xuân Thanh - đã dẫn đến kết quả Nguyễn Hải Long 'khai sạch' để được hưởng mức án khoan hồng chỉ có 3 năm 10 tháng tù giam thay vì gấp đôi nếu không chịu nhận tội làm gián điệp và bắc cóc. Sang đầu tháng Tám năm 2018, cơn địa chấn mang tên 'Trịnh Xuân Thanh' đã chính thức lan sang Slovakia và cả một phần châu Âu theo cách Bộ trưởng Công an Việt Nam là Tô Lâm bị nghi ngờ trầm trọng về việc ông ta đã làm 'bình phong' để mượn một chiếc máy bay của chính phủ Slovakia nhằm 'vận chuyển' Trịnh Xuân Thanh từ sân bay Bratislava đến thủ đô Moscow của Cộng hòa liên bang Nga. Cơn địa chấn trên đang khiến tương lai EVFTA bong bóng hơn bao giờ hết. Kịch bản nào với Trần Huỳnh Duy Thức?Cũng vào thời gian sôi sục trên, một nhóm nhà ngoại giao của Đức và Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam đã vào nhà tù thăm Trần Huỳnh Duy Thức. Một lần nữa Trần Huỳnh Duy Thức khẳng khái trả lời 'không tị nạn chính trị'. Còn sắp tới đây, liệu kịch bản nào sẽ xảy ra với Trần Huỳnh Duy Thức? Trong nhiều 'đặc thù xã hội chủ nghĩa' ở Việt Nam, hành động công an gấp rút thúc ép tù chính trị phải 'nhận tội' khá thường là một tín hiệu báo trước sự thay đổi số phận của người tù. Thông thường, sự thúc ép nhận tội từ phía cơ quan công an và tư pháp chỉ xảy ra trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm và phúc thẩm, chứ không phải khi bị cáo đã trở thành tù nhân. Năm 2018, này, Trần Huỳnh Duy Thức đã thụ án đến 9 năm - quá lâu để công an ép 'nhận tội', nếu không phải nhằm mục đích cầu may một lời thú tội để nếu có miễn cưỡng phải đặc xá cho Trần Huỳnh Duy Thức thì 'nhà nước ta' cũng không đến nỗi quá bỉ mặt. Không chịu 'nhận tội', số phận của Trần Huỳnh Duy Thức sẽ không được 'đặc xá' và vẫn phải tiếp tục thụ án nốt 7 năm còn lại? Hay Trần Huỳnh Duy Thức sẽ bị lặp lại kịch bản đã xảy ra với Điếu Cày Nguyễn Văn Hải - cưỡng bức đưa lên máy bay để tống xuất ra nước ngoài vào một đêm tối trời nào đó? Chỉ còn ít hôm nữa là đến ngày 2/9. Hy vọng cho kịch bản Trần Huỳnh Duy Thức nhận 'đặc xá' theo điều kiện 'yêu cầu đối ngoại của nhà nước Việt Nam' trong Luật Đặc xá, được trả tự do và được ở lại Việt Nam mà không bị tống xuất ra nước ngoài và để những người dân Việt được ôm chầm lấy anh, có lẽ thật mỏng manh. Nhưng vẫn là hy vọng… P.C.D. Tác giả gửi BVN. |
Việt Nam trong mạng lưới hải thương châu Á và “Con đường tơ lụa trên biển” Posted: 22 Aug 2018 03:47 PM PDT Trần Đức Anh Sơn Đây là ý kiến của tôi về cái gọi là "Con đường tơ lụa trên biển" mà Trung Cộng đang giành giật cho họ và đề xuất UNESCO công nhận là Di sản văn hóa thế giới của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Trong hai ngày 30 và 31-5-2017, hơn 30 chuyên gia, học giả quốc tế trong lĩnh vực lịch sử, khảo cổ và di sản hàng hải đã nhóm họp tại Viện Khảo cổ học thuộc Đại học London (UCL, Anh quốc), dưới sự chủ trì của Trung tâm Di sản Thế giới (WHC) thuộc UNESCO. Tham gia điều hành hội nghị quan trọng này còn có Hội đồng Di tích và Di chỉ quốc tế (ICOMOS) và Trung tâm Quốc tế về Nghiên cứu Bảo tồn và Bảo quản các tài sản văn hóa (ICCROM), là những tổ chức phi chính phủ quốc tế hàng đầu trong lĩnh vực bảo tồn di sản văn hóa và thiên nhiên của nhân loại. Đây là hội nghị xem xét quy trình công nhận Con đường tơ lụa trên biển (Maritime Silk Road) là Di sản Thế giới, do Chính phủ Trung Quốc tài trợ kinh phí, thông qua Quỹ Di sản thế giới (WHF).(1) Trung Quốc cũng chính là quốc gia đề xướng việc lập hồ sơ đệ trình UNNESCO công nhận Con đường tơ lụa trên biển là Di sản Thế giới. Đúng 6 tháng sau, ngày 1-12-2017, tại Seoul diễn ra hội thảo quốc tế Con đường tơ lụa trên biển ở Đông Nam Á: Giao lộ của văn hóa do Đại học Sogang và Bảo tàng Quốc gia Hàn Quốc đồng tổ chức, với sự tham gia của các học giả đến từ Ấn Độ, Thái Lan, Pháp, Ý, Việt Nam và Hàn Quốc. Các học giả tham dự hội thảo này đã dẫn nhiều bằng chứng khảo cổ học và tư liệu lịch sử để chứng minh Con đường tơ lụa trên biển kết nối Trung Quốc với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, thế giới Ả Rập và châu Âu xuyên qua Thái Bình Dương, Ấn Độ Dương, Địa Trung Hải…, hình thành từ hơn 2.000 năm trước là di sản chung của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam.(2) Đó không chỉ là mạng lưới hải thương liên lục địa, mà là còn giao lộ của văn hóa, nghệ thuật, tôn giáo, tác động đến sự phát triển của nhiều quốc gia qua nhiều thời kỳ lịch sử. * Con đường tơ lụaNhà địa lý học người Đức Ferdinand von Richthofen là người khai sinh thuật ngữ Seidenstraße (Con đường tơ lụa) vào năm 1877 trong các nghiên cứu của ông về con đường thương mại cổ đại xuất phát từ Trung Hoa đi về phía tây châu Á, xuyên qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, các nước xung quanh Địa Trung Hải và đến tận châu Âu, dài hơn 6.400 km.(3) Đó là con đường buôn bán giữa Trung Quốc với thế giới bên ngoài, khởi nguyên từ thời nhà Hán (206 TCN - 220), hưng thịnh vào thời nhà Đường (618 - 907) và nhà Nguyên (1271 - 1368), suy thoái và tàn lụi vào thời Minh (1368 - 1644).
Ngoài Con đường tơ lụa trên bộ từ Trung Quốc xuyên qua Trung Á và Trung Đông, còn có tuyến thương mại đường biển kết nối các thương cảng của Trung Quốc với các thương cảng của các quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương, đến tận Địa Trung Hải và châu Âu. Đó là Con đường tơ lụa trên biển, hình thành từ thời nhà Hán, phát triển mạnh mẽ vào thời nhà Đường và bùng nổ trong các thế kỷ XVI - XVII. Những nghiên cứu của giới khảo cổ học và sử học quốc tế ngay nay cho biết Con đường tơ lụa trên biển này đã kết nối 43 địa điểm, chủ yếu là các thương cảng, thuộc các quốc gia: Pakistan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Việt Nam, Campuchia, Malaysia, Indonesia, Sri Lanka, Ấn Độ, Nga, Oman, Ai Cập, Thổ Nhĩ Kỳ, Venice. Trong đó, có 8 địa điểm nằm trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay là: Vân Đồn, Luy Lâu, Long Biên, Phố Hiến, Hội An, Cù Lao Chàm, Thị Nại và Óc Eo.(4) * Việt Nam trong mạng lưới hải thương châu Á thời cổ đạiViệt Nam là một quốc gia bán đảo, có bờ biển trải dài hơn 3.260 km và một không gian biển rộng hơn 1 triệu km2. Việt Nam lại nằm trên tuyến hải thương quan trọng nhất thế giới, từng là một trong những trung tâm kinh tế lớn ở Đông Nam Á thời cổ trung đại, giữ một vai trò quan trọng trong mạng lưới hải thương châu Á.
Trong các thế kỷ trước và sau Công nguyên, chủ nhân các nền văn hóa: Đông Sơn, Sa Huỳnh, Óc Eo - Phù Nam trên lãnh thổ Việt Nam ngày nay đã từ vùng trung du, đồng bằng cận duyên tiến dần ra phía biển, khai thác tài nguyên biển để tồn tại và du nhập các yếu tố biển vào văn hóa của cộng đồng mình. Đặc biệt, cư dân của văn hóa Đông Sơn đã có mối quan hệ mật thiết với cư dân ở Nam Trung Hoa, ở Tây Nam Nhật Bản, ở các quốc đảo trong khu vực Đông Nam Á thông qua giao thương trống đồng. Những trống đồng Đông Sơn phát hiện trong các di chỉ ở Nam Trung Hoa, Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo, nhất là ở các vùng cận duyên từng là những cảng thị cổ ở Philippines, Malaysia và Indonesia… là những minh chứng sống động. Nhiều nhà nghiên cứu đã xác quyết hình thuyền khắc trên trống đồng Đông Sơn chính là hình mẫu của kiểu nhà mái cong và là totem của nhiều tộc người sống trong vòng cung Thái Bình Dương, điển hình là cư dân ở vùng Batak và vùng Tongkonan ở Indonesia. Mục từ Dongson Culture trong The New Encyclopaedia Britanica ghi nhận: "Đông Sơn không những chỉ riêng là văn minh đồ đồng mà cũng có đồ sắt nữa… Người Đông Sơn là dân đi biển, có thể đã hải hành và thương mại khắp vùng Đông Nam Á châu".(5)
Những công bố của các học giả phương Tây về khảo cổ học Đông Nam Á trong các 30 năm gần đây, cùng với thông tin từ các nguồn thư tịch cổ ở Trung Quốc và các nước Đông Nam Á cho biết cách đây khoảng 4.000 năm, cư dân Đông Nam Á đã tham gia vào mạng lưới hải thương quốc tế, kết nối Trung Hoa với các nước Đông Nam Á, Ấn Độ, thế giới Ả Rập và châu Âu. Ngoài giao thương về kinh tế, còn có sự tiếp xúc, trao đổi trong các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, chính trị… Những tiếp xúc này đã tác động lớn đến việc thay đổi các cấu trúc xã hội, tôn giáo và văn hóa của cư dân Đông Nam Á, trong đó có cư dân Việt Nam cổ đại. Từ trước thời Bắc thuộc, lưu vực sông Hồng, sông Mã đã là những trung tâm hàng hải cùng thương mại phồn thịnh, hàng hóa đi khắp nơi và có liên lạc thường xuyên với Tây phương. Hán sử chép rằng Hán Vũ Đế (156 - 87 TCN) tạo lập một tuyến hải thương từ Trung Hoa đến Ấn Độ đi qua biển Đông và Ấn Độ Dương. Chuyến hàng đầu tiên gồm có tơ lụa và vàng rời Trung Hoa vào năm 140 TCN, đến một thành phố ở gần Madras (Ấn Độ). Phương tiện chuyên chở chuyến hàng này do người Nam Man phụ trách. Nam Man là tên người Hán gọi cư dân các tộc người Việt cổ ở phía Nam Trung Hoa. Nghiên cứu của các học giả quốc tế sau này cũng ghi nhận tương tự. Học giả Trung Quốc Lin Yu viết trong nguyệt san T'ien Hsia Monthly rằng: "Thời cổ đại, người Man đã đóng thuyền đi ra biển. Cho đến cuối triều đại Lưu Tống (420 - 479, thời kỳ Nam Bắc triều), có thể người Trung Hoa mới bắt đầu đóng tàu thuyền cho việc hải thương".(6) Còn Friedrich Hirth và W.W. Rockhill, tác giả của nhiều sách và bài khảo cứu về hàng hải châu Á, thì quả quyết rằng: "Vào đầu Công nguyên, không có một tàu thuyền nào của Trung Hoa hoạt động trong Ấn Độ Dương, mà người Trung Hoa thường quá giang theo tàu thuyền của dân Nam Man".(7) Những hải trình thương mại giữa Địa Trung Hải và các nước Đông Á đều đi qua một thương trạm mang tên Kattigara (hay Cattigara), mà hầu hết bản đồ thế giới cổ đại xuất bản ở phương Tây đều đánh dấu là một vị trí thuộc miền Bắc Việt Nam ngày nay. Nhiều học giả cho rằng Kattigara chính là vùng đất Kẻ Chợ - Hà Nội sau này. Nhưng cũng có ý kiến nói rằng Kattigara là vùng cảng Hòn Gai trong vịnh Hạ Long ngày nay (ý kiến của Bình Nguyên Lộc).(8) Trong thời kỳ Bắc thuộc (179 TCN - 938), hải cảng sầm uất nhất khu vực Đông Nam Á là Long Biên, nằm ven sông Hồng. Mọi hàng hóa chuyên chở bằng đường biển vào ra Trung Quốc thời kỳ này đều từ đi qua Long Biên và người Việt ở Giao Chỉ (Bắc Bộ Việt Nam ngày nay) luôn luôn nắm giữ hệ thống thương thuyền giao dịch trong mạng lưới hải thương này.(9) Sau thời Bắc thuộc, Đại Việt (Việt Nam lúc đó) tiếp tục giữ vai trò quan trọng trong mạng lưới hải thương ở Biển Đông. Ở vùng biển cực bắc của Đại Việt, vào năm 1149, vua Lý Anh Tông cho thành lập thương cảng Vân Đồn và biến nơi này thành một thương cảng quốc tế kết nối giao thương giữa Đại Việt với các nước ở khu vực Đông Bắc Á trong các thế kỷ XII - XIV. Phía nam Đại Việt bấy giờ là vương quốc Champa. Các chứng cứ khảo cổ học phát hiện ở miền Trung Việt Nam (vốn là lãnh thổ của vương quốc Champa xưa) cùng với thông tin từ các nguồn sử liệu của Trung Quốc, Đại Việt và bi ký Champa, cho biết: cư dân Champa từ các thế kỷ VI - VII đã có các hoạt động giao thương với các quốc gia ở Đông Nam Á và thương buôn Trung Hoa, Ả Rập. Trong đó Cù Lao Chàm là một trong những trạm dừng quan trọng trong mạng lưới hải thương ở Biển Đông. Những phát hiện khảo cổ, cùng với những ghi chép trong thư tịch cổ và những điều kiện sinh thái thuận lợi cho thấy cụm đảo Cù Lao Chàm đã tham dự vào tuyến đường giao thương hàng hải thời cổ trung đại. Kết quả khai quật di chỉ Bãi Làng cho thấy có hiện vật có nguồn gốc nội địa như gốm cùng kiểu dáng, niên đại và hoa văn với gốm phát hiện ở Đồng Nà, Nam Thổ Sơn, Trà Kiệu…; có đồ gốm Trung Hoa thế kỷ VII - VIII; có đồ gốm và thủy tinh có nguồn gốc từ Trung Đông, tương tự đồ gốm phát hiện ở Phú Quốc, Trà Kiệu, Ngũ Hành Sơn, Hội An…, niên đại vào khoảng thế kỷ IX - X.(10) Ở miền Nam Việt Nam, trong các thế kỷ VII - XII, cư dân Óc Eo - Phù Nam ở châu thổ sông Mékong đã giao thương với các quốc gia trong vùng ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ.11 * Việt Nam và Con đường tơ lụa trên biển trong kỷ nguyên Đại thương mại của thế giớiThế kỷ XVI, tình hình thế giới có nhiều biến đổi, nhất là về kinh tế. Ở châu Âu, chủ nghĩa tư bản đang phát triển mạnh và đang mở rộng quá trình tìm kiếm thị trường ở châu Á, trong đó có Việt Nam. Sự phát triển này có ảnh hưởng nhất định đến bối cảnh kinh tế và chính trị của Việt Nam tại thời điểm đó. Lúc này Việt Nam đã bị chia cắt thành hai vùng: Đàng Ngoài và Đàng Trong. Chính quyền ở cả hai vùng này đều thực thi chính sách mở cửa đối với ngoại thương, bằng việc thiết lập một hệ thống thương cảng quan trọng, cho phép tàu buôn nước ngoài đến buôn bán và trung chuyển hàng hóa giữa Việt Nam với các nước trong và ngoài khu vực. Ở Đàng Ngoài có hai thương cảng quốc tế nổi tiếng là Phố Hiến (Hưng Yên) và Thăng Long - Kẻ Chợ (Hà Nội). Ở Đàng Trong, chính quyền mở nhiều thương cảng ven biển trên cơ sở hồi sinh các thương cảng cổ của vương quốc Champa xưa, vốn là những trong địa trong mạng lưới hải thương mại của Champa từ thế kỷ IX đến thế kỷ XII. Trong đó, các cảng Thanh Hà (Huế), Hội An (Quảng Nam) và Nước Mặn (Quy Nhơn) là ba thương cảng quốc tế quan trọng nhất. Ngoài các thương cảng ven biển, thì các đảo ven bờ ở Đàng Trong như Cù Lao Chàm, Cù Lao Ré, Cù Lao Thu… cũng là những điểm cập bến chân thường xuyên của thương thuyền nước ngoài, để tránh trú bão, tiếp nước ngọt và lương thực, trao đổi hàng hóa… Trước khi có sự bùng nổ hải thương trong kỷ nguyên Đại thương mại (thế kỷ XVI - XVII) trên thế giới, thì vào năm 1371, chính quyền nhà Minh ở Trung Quốc ban hành chính sách hải cấm (cấm biển), kéo dài cho đến năm 1567 mới chấm dứt. Chính sách hải cấm đã khiến cho nhiều loại hàng hóa truyền thống từ Trung Hoa xuất khẩu sang Nhật Bản và một số nước phương Tây như tơ lụa, gốm sứ… bị cấm vận. Do đó, thương thuyền của Nhật Bản và các nước phương Tây phải tìm mua những mặt hàng thay thế ở các nước khác như Việt Nam, Ấn Ðộ, Thái Lan…, hoặc dùng hải cảng của các nước này để trung chuyển hàng hóa giữa Trung Hoa, Nhật Bản và các nước bên ngoài châu Á. Ðiều này đã khiến cho các thương cảng ở Việt Nam trở thành những mắt xích quan trọng trong mạng lưới hải thương từ Á sang Âu và ngược lại. Ngoài ra, chính sách hải cấm của Trung Quốc thời kỳ này đã tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam, như: đồ gốm, tơ sống, hương liệu, gia vị, lâm thổ sản… vượt biển đi đến các nước trong khu vực Đông Nam Á, Nhật Bản và thế giới Ả Rập. Đây là thời kỳ mà Con đường tơ lụa trên biển được phục hưng mạnh mẽ. Cùng với nó là con đường gia vị, con đường gốm sứ… được hình thành, hoạt động nhộn nhịp thông qua mạng lưới hải thương xuyên đại dương. Những con đường này đã kết nối các nền kinh tế ở phương Đông với phương Tây; du nhập khoa học kỹ thuật của châu Âu vào châu Á; truyền bá văn hóa, tư tưởng và tôn giáo từ phương Tây sang phương Đông và ngược lại.
Các dấu tích khảo cổ học dày đặc trên lãnh thổ Việt Nam; các con tàu đắm trên vùng biển Việt Nam được phát hiện ở Hòn Cau, Cù Lao Chàm, Bình Thuận, Cà Mau, Bình Sơn…; các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể hiện hữu trong các di tích lịch sử văn hóa ở khắp Việt Nam…, đã chứng minh Việt Nam đã tích cực tham gia vào mạng lưới hải thương xuyên Biển Đông và đã đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành và duy trì Con đường tơ lụa trên biển từ trước Công nguyên cho đến kỷ nguyên Đại thương mại hàng hải của nhân loại. Và, Con đường tơ lụa trên biển ấy xứng đáng được vinh danh và bảo tồn như là di sản chung của nhiều thế hệ, nhiều quốc gia đã góp phần làm nên con đường huyền thoại ấy. Đó không thể là di sản riêng của một chính thể, một quốc gia nào, và càng không thể phục vụ cho một mục đích chính trị nào. T.Đ.A.S. |
Văn chương thiếu máu yếu ớt về đề tài “CMT8” Posted: 22 Aug 2018 03:43 PM PDT Phùng Hoài Ngọc Năm trước tôi đã viết bàn luận về Huế tháng Tám, bài thơ duy nhất do Tố Hữu viết ngay sau khi sự biến xảy ra. Bài đã đăng trên VNTB. Tóm tắt trong vài chữ "Tố Hữu tưởng tượng ra một viễn cảnh tương lai từ gợi ý sâu xa của học thuyết Mác-Lê, anh ta phát điên và gào lên theo thể Thơ Mới". Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là "cơn-điên-quyền-lực-bộc-phát". (Nhớ lại hồi tuổi trẻ nhẹ dạ cả tin, đám học trò chúng tôi từng nghe các thầy giáo, các nhà phê bình say sưa bình phẩm các biện pháp nghệ thuật "kỳ thú, tài hoa" của nhà thơ. Chuyện đó nay không bàn thêm nữa).
Đoàn người biểu tình ngày 19 tháng 8 năm 1945 trước cửa Bắc Bộ phủ.
Bữa nay bàn tiếp về vài sáng tác khác viết sau sự kiện, số lượng vừa ít ỏi, cảm xúc gượng gạo, qua loa, lầm lẫn cố tình gây nhiễu về đề tài Cách mạng Tháng Tám. Nào hãy đọc bài thơ "Đất Nước" của Nguyễn Đình Thi viết về "Cách mạng Tháng Tám" (nháp 1948, hoàn thành 1955, xuất bản trong tập Người chiến sĩ (NXB Văn nghệ, 1956). "Súng nổ rung trời giận dữ Người lên như nước vỡ bờ Nước Việt Nam từ máu lửa Rũ bùn đứng dậy sáng loà". Thực tế "Ngày Cách mạng Tháng Tám" không có tiếng súng nổ nào cả, không cả la hét giận dữ. Thiên hạ chỉ ngỡ ngàng ngạc nhiên và "cuốn theo chiều gió" thôi. Ông nhà thơ đại tá Chính Hữu viết bài "Ngày về": "Nhớ đêm ra đi, đất trời bốc lửa Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm. Rách tả tơi rồi đôi giày vạn dặm Bụi trường chinh phai bạc áo hào hoa" Thực tế là, Hà Nội không tự đốt cháy mình bao giờ. Chính Hữu đã copy cảnh nhân dân thành phố Matskva đốt cháy thành phố của họ rồi rút chạy trước khi quân Naponeon kéo vào chiếm đóng (theo tiểu thuyết "Chiến tranh và Hoà bình" - Lev Tolsoi). Kim Lân và truyện ngắn "Vợ nhặt"Với truyện ngắn "Vợ nhặt" tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư", nhà văn Kim Lân viết về nạn đói cuối 1944, đầu năm 1945 để khẳng định sức sống và tình yêu của người cùng khổ. Không liên quan đến CM tháng Tám. Truyện ngắn in trong tập "Con chó xấu xí" (xuất bản 1962). Truyện ngắn thì được viết sau khi "Cách mạng Tháng Tám" xảy ra. Do vậy Kim Lân đã thêm tý đuôi bẻ ngoắt cho hợp thời thế. Năm 1945, nạn đói khủng khiếp xảy ra khắp nơi, người chết như rạ. Tràng là một người xấu xí thô kệch, ế vợ, sống ở xóm ngụ cư. Tràng kéo xe bò thuê và sống với một mẹ già. Một lần kéo xe thóc Liên đoàn lên tỉnh, Tràng đã quen với một cô gái bốc vác. Vài ngày sau gặp lại, Tràng không còn nhận ra cô gái ấy bởi vẻ tiều tụy, đói rách làm cô đã khác đi rất nhiều. Tràng đã mời cô gái một bữa ăn, cô gái liền ăn một lúc bốn bát bánh đúc. Sau một câu nói nửa thật, nửa đùa, cô gái đã theo anh về nhà làm vợ. Bà cụ Tứ mẹ Tràng đón nhận người con vừa buồn vừa mừng, vừa lo âu, vừa hi vọng nhưng không hề tỏ ra rẻ rúng người phụ nữ đã theo không con mình. Trước cảnh ấy, Tràng cảm thấy mình gắn bó và có trách nhiệm với cái nhà của mình và thấy mình nên người, người vợ đúng là một phụ nữ hiền hậu đúng mực dù nghèo khổ. Bà cụ Tứ đãi hai con vài bát cháo loãng và một nồi chè cám. Qua lời kể của người vợ về chuyện phá kho thóc Nhật, Tràng dần dần nhớ hai chữ "Việt Minh" và trong óc Tràng hiện lên hình ảnh đám người đói kéo nhau đi phá kho thóc Nhật, phía trước là một lá cờ đỏ bay phấp phới. "Im lặng một lúc, thị lại tiếp: - Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy. Tràng thần mặt ra nghĩ ngợi,cái mặt to lớn bặm lại, khó đăm đăm. Miếng cám ngậm trong miệng hắn bã ra, chát xít…" Quân Nhật hoang mang chỉ còn đóng trại chờ ngày thi hành hiệp định rút về nước. Kho thóc đóng cửa để đó, lính canh giữ trễ nải. Dân đói thì phải đi phá kho thóc. Đó là lẽ tự nhiên sống còn của con người lâm vào bước đường cùng. Chẳng có cái gì gọi là yêu nước hay là giác ngộ cách mạng. Những người viết sử và viết chính trị sau này cố tình bôi son trát phấn lên sự kiện để "giáo dục" dân chúng, nhất là thế hệ trẻ sinh sau chẳng biết gì lại còn bị bưng bít thông tin. Hai mươi năm sau CMT8, Chế Lan Viên viết: "Rồng năm móng vua quan thành bụi đất / Mỗi trang thơ đều dội tiếng ta cười!" Chế độ phong kiến nhà Nguyễn dù gì cũng xây dựng đất nước mấy trăm năm, đã có công lao khai phá miền Nam rõ ràng. Nhà thơ sỉ mắng "vua quan nhà Nguyễn thành bụi đất" - một câu thơ thô lỗ, bất nhân, bạo lực, ăn cháo đá bát. Lịch sử không bao giờ "chết", sao lại có thể trở thành bụi đất? Chế viết một câu thơ của người nông dân mù chữ. Còn sau đây là câu thơ lộng ngôn, hỗn hào nhất với tổ tiên dân tộc, phi lý nhất về quan niệm lịch sử… (Nhớ hồi xưa chẳng có thầy giáo Văn hay nhà phê bình nào bình giảng được câu thơ dưới đây): "Có phải cha ông đến sớm chăng và cháu con thì lại muộn Dẫu có bay giữa trăng sao cũng tiếc không được sống phút bây giờ Buổi đất nước của Hùng Vương có Đảng". Một câu văn viết theo thể điều kiện (conditional) ngớ ngẩn, uốn éo "cha ông đến sớm" tức là mắc lỗi "sinh ra sớm quá", và "con cháu đến muộn" thì thực ngớ ngẩn khó tả. Câu thứ 3 thì nịnh hót trơ tráo vô cùng "buổi Hùng vương có Đảng". Thương ôi một thế hệ trí thức văn nghệ sĩ bại hoại, rồi nhiều thế hệ suy thoái nhân cách, không thể ngờ được! Nhà văn Nguyễn Đình Thi cố nhét "CM tháng Tám" vào tiểu thuyết "Vỡ bờ""Vỡ bờ" tạm coi là bộ tiểu thuyết sử thi bề thế, gồm 2 tập, dày tới trên ngàn trang in, nội dung đề cập tới cuộc sống, đấu tranh của quần chúng lao động dưới sự giác ngộ, dìu dắt của các đảng viên cộng sản trong những ngày tiền khởi nghĩa, để rồi làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám "long trời lở đất". Tên bộ tiểu thuyết và cảm hứng chủ đạo là tiếp nối câu thơ được chính tác giả viết trước đó nhiều năm (bài "Đất nước", viết trong kháng chiến chống Pháp): "Súng nổ rung trời giận dữ/Người lên như nước vỡ bờ/Nước Việt Nam từ máu lửa/Rũ bùn đứng dậy sáng lòa". Ông Thi cố viết tiếp tiểu thuyết "Vỡ bờ" thực ra đã ăn cắp ý tưởng, nhân vật và kết cấu của tiểu thuyết "Chiến tranh và Hoà bình" của Lev Tolstoi. Hai nhân vật chính "Khắc đảng viên" và "Quyên con nhà gia giáo". Được xây dựng theo mô hình hai nhân vật Andrey Bolkonski và Natasa của Lev Tolsoi. Bối cảnh 3 thành phố Việt Nam cũng theo kiểu ba thành phố nước Nga. Thứ đồ giả, nhái không thể lừa được độc giả. Cuốn tiểu thuyết duy nhất tái hiện CM tháng Tám đã bị vứt vào sọt rác. Cùng với thời gian, bộ sách đã chứng minh cho ý kiến của nhà văn Nguyễn Tuân, rằng trong văn học không phải cứ "to tổ bố" là có thể trụ vững. Đối chiếu với những dòng văn chân thực về CMT8Những ngày tháng 8 năm 1945 dưới ngòi bút chân thực của nhà văn Duyên Anh: "Cướp chính quyền ở thị xã Thái Bình" "Ngày phát xít Nhật đầu hàng Đồng Minh, trước sự chứng kiến của đông đảo dân chúng, quân Nhật đồn trú ở thị xã Thái Bình buồn bã cúi đầu hạ cờ. Lá cờ Nhật từ từ tụt xuống, tựa hồ mặt trời lặn vào buổi chiều. Một thanh niên tên Huy rút ra một lá cờ màu vàng quẻ Ly của Chính phủ Trần Trọng Kim lao nhanh đến cột cờ định giương lên. Nhưng chưa kịp làm gì thì anh đã bị hàng chục người áo nâu từ đâu ào ra xô ngã. Họ lấy ra một lá cờ đỏ, buộc vào dây rồi kéo lên. Một người áo nâu đeo súng lục hô khẩu hiệu: "Cách mạng thành công muôn năm!" Thoạt đầu, chỉ độ vài chục người hô theo. Dần dần, đám đông hò reo "Muôn năm!" theo. Hai đứa trẻ tên Vũ và Côn chứng kiến diễn biến đó ngơ ngác không hiểu tại sao anh Huy, người trước đó đã dám phanh ngực thách thức kiếm Nhật, người bảo trái tim mạnh hơn súng, người làm Vũ mến phục và làm Côn hãnh diện là dân Thái Bình lại bị những người áo nâu xô ngã và trói gô lại". Đó là vài dòng tóm tắt nội dung chương 3 của cuốn tiểu thuyết "Con Thúy" trong series tiểu thuyết "Những đứa trẻ Thái Bình" (các nhân vật Vũ, Côn, Vọng, Thúy, Khoa, Luyến) của nhà văn quá cố Duyên Anh trong giai đoạn lịch sử đầy biến động của đất nước. Chỉ trong một chương truyện ngắn, với bối cảnh thị xã Thái Bình nhỏ bé, cùng với sự lần lượt thay ngôi đổi vị chớp nhoáng của 3 lá cờ (cờ Nhật, cờ Chính phủ Trần Trọng Kim, cờ Việt Minh) dưới ánh mắt ngơ ngác của những thiếu niên 14 - 15 tuổi, ngòi bút của Duyên Anh đã tái hiện thành công bức tranh phác thảo toàn cảnh của nước Việt Nam trong những ngày mùa thu tháng 8 năm 1945 với những diễn biến thời cuộc quá nhanh mà nội các Trần Trọng Kim đang cầm quyền lúc bấy giờ gồm những trí thức thừa lòng yêu nước nhưng thiếu kinh nghiệm chính trị đã không kịp trở tay. Duyên Anh viết tiếp: "Dân thị xã đã nhập vào cuộc chơi lớn. Tất cả vui mừng, hớn hở như trẻ con trong cuộc chơi cướp cờ. Trong cuộc chơi này, ai nhanh chân, mưu mẹo, cướp được cờ chạy về bên mình là người ấy được vỗ tay, khen ngợi. Kẻ thua cuộc luôn luôn là kẻ chụp hụt lá cờ hay chụp cờ rồi mà bị đuổi theo xô ngã khi chưa về đến đích". Thế là trong cuộc cuộc chơi cướp cờ của người lớn trong những ngày tháng 8 năm 1945, Bảo Đại nhu nhược và nội các Trần Trọng Kim chậm chân đã là người thua cuộc. KếtBây giờ chúng ta cùng bình tâm suy ngẫm. Vậy, sau khi giành được chính quyền thì chính quyền đó có về tay nhân dân không? Có lẽ câu trả lời đã rõ sau 70 năm. Đến ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam vẫn không có đủ những quyền cơ bản. Nhân dân Việt Nam không được bầu cử một cách thực sự, không được sở hữu đất đai, không có quyền phúc quyết Hiến pháp và những vấn đề hệ trọng của đất nước. Các quyền cơ bản trong Hiến pháp 1946 ngày nay vẫn bị trì hoãn. Và vì thế, cuộc cách mạng "giành chính quyền về tay nhân dân", 73 năm qua vẫn chưa xong. P.H.N. VNTB gửi BVN. |
“Giọt nước mắt thương dân / dân mình phận long đong” (Mênh mông thế sự để gió cuốn đi số 50) Posted: 21 Aug 2018 06:54 PM PDT Tương Lai Trằn trọc khó ngủ, nằm nghe nhạc Trịnh, nghe đi nghe lại "Nước mắt quê hương" mà quặn lòng, cùng nhòe nước mắt với người đã từng rơi "giọt nước mắt không tên, xin để lại quê hương" khi người nhạc sĩ ấy vĩnh viễn nằm xuống: "Ôi dòng nước mắt chảy hoài,… dòng nước mắt trong tim, chảy lai láng vào hồn, nửa đêm gọi đến mình". Giai điệu bản nhạc "dân mình phận long đong" mà "nửa đêm gọi đến mình" ấy đã giục giã ngồi dậy viết ra những dằn vặt phẫn nộ vì cái đám quyền lực mất gốc đã không chỉ đàn áp, thóa mạ dân mà còn vu khống để bịt miệng dân, trói tay dân. Cái luận điệu vu vạ những người xuống đường biểu tình phản đối dự thảo đạo luật bán từng phần đất nước nằm tại các địa điểm hiểm yếu của ba đặc khu để dâng cho Tàu là "những phần tử bất hảo"! Không dừng lại đấy, sự vu vạ được đẩy thêm một bước nữa là "bọn chích xì ke, nghiện ma túy", "bọn sống ảo, thích thể hiện mình" được được thuê đi biểu tình. Vậy thì mỗi suất thuê theo các nhà chức trách tính ra, thì số tiền vu vạ Will Nguyễn mang theo được cánh "dư luận viên" bơm lên để thuê người biểu tình, là có dụng ý. Những vu vạ để dằn mặt, để trấn áp, để bao vây ngăn chặn… những hành xử với người dân còn tệ hơn với súc vật khi mà cuộc sống của dân, trước hết là dân nghèo nông thôn và đô thị đang bị tả tơi bởi thảm họa của thiên tai bão tố, lũ lụt, lũ ống, lũ quét, sạt lở đất… suốt từ vùng núi phía Bắc, chạy dài suốt các tỉnh duyên hải của khúc ruột miền Trung, lan khắp các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Đừng quên rằng cảnh báo thảm họa nước biển dâng đã từng từ lâu chỉ rõ Việt Nam là một trong những vùng sẽ bị tai họa nước biển dâng và hệ lụy môi trường bị tàn phá nặng nhất. Ngặt một nỗi, bao nhiêu sức lực và đầu óc của giới quyền lực chóp bu đã dồn cho cuộc quyết đấu nhằm thanh toán đối thủ chính trị thì còn khoản nào để mà trù tính vạch kế hoạch dài hạn đối phó với thảm họa quốc gia. Rồi bộ đội lại được huy động để dầm mưa, nai lưng khuân vác dọn dẹp đất đá, cây đổ, nhà sập để cứu dân. Nhìn thật kỹ những ai đang có mặt tại những nơi thập phần nguy nan ấy? Lại những người nông dân mặc áo lính từng trằn lưng, phơi mặt nơi đồng chua nước mặn hay vùng sâu vùng xa vốn quen với chân lấm tay bùn! Đương nhiên, cũng phải công bằng mà nói, hình ảnh những quan chức chỉ huy cứu nạn tại thiên tai cũng phần nào làm vơi bớt đi những phản cảm của cũng những gương mặt ấy tại chốn công đường. Có lẽ những công việc cứu nạn khẩn cấp đã gọi dậy trong họ những nét nhân bản truyền thống của họ mạc, cộng đồng chưa phôi pha hết những vất vả của thế hệ từng chiến đấu bảo vệ quê hương đất nước. "Ở bầu thì tròn, ở ống thì dài", điều ấy đang thấp thoáng trong hành động và lòng nhân ái mà sự tha hóa của quyền lực từng bào mòn làm thui chột và ruỗng nát phẩm tính làm người hình như đã đánh thức phần còn lại trong ai đó chút nghĩa đồng bào từ cơn hoạn nạn. Là nói vậy cho khách quan và sòng phẳng! "Dân mình phận long đong", oái oăm thay, lại là điệp khúc liên miên trong giai điệu cuộc sống của cái thể chế chính trị quyết không chịu thay đổi, đang áp đặt trên diện mạo đất nước hôm nay. Một màu xám phủ lên gương mặt xã hội, để rồi bỗng chốc lại ào lên một trận cuồng phong phẫn nộ của trời đất, của lòng người. Chẳng thế mà ông tướng vừa được điều về trấn giữ trận địa truyền thông đã chỉ đạo rằng tin xấu chỉ được chiếm 20% mặt báo hàng ngày. Cứ cho là có nhã ý muốn làm giảm bớt sự căng thẳng của đôi mắt người dân ngày ngày, giờ giờ, phút phút cứ lật trang báo, bật màn hình thì chỉ nhận được tin tù đày, giam cầm, cướp giật, bạo hành, trọng tội, trọng án bên cạnh sự lì lợm, vô sỉ của những bản mặt đã bão hòa với sự chán chường trong cảm nhận của mọi tầng lớp nhân dân, để mà tìm thấy chút hợp lý trong sự chỉ đạo của một ngài bộ trưởng trẻ trung mới xuất xưởng. Nhưng liệu làm con đà điểu rúc đầu vào cát thì có khiến cho những thảm trạng u tối đang trùm lấp cuộc sống được không nhỉ? Đấy là chưa nói đến nỗi hàm oan của hình tượng con đà điểu trở thành một thành ngữ xuất phát từ sự miêu tả của triết gia Gaius Plinius Secundus cách đây ngót nghét 2000 năm! Triết gia này vốn đã dành nhiều thời gian để quan sát, nghiên cứu và ghi chép lại những hành động, tập tính của động vật tự nhiên và môi trường xung quanh trong điều kiện thiết bị quan sát thời ấy đã tạo ảo giác quang học về hình ảnh con đà điểu, vốn to xác nhưng đầu lại rất bé, nên khi nằm sát mặt đất cứ như rúc đầu vào cát. Nếu một sinh vật khi gặp nguy hiểm mà làm đúng như thành ngữ kia thì loài đà điểu đã bị tuyệt diệt từ lâu rồi vì kẻ thù của nó sẽ chẳng từ bỏ thân hình to xác đang phơi ra không chống cự vì đầu vốn nhỏ lại đã vùi trong cát kia để mà không xơi sạch! Có chăng chỉ có con người, loại người vô sỉ mà các cụ ta rủa là "đồ mất giống" thì có thể đê hèn lẩn tránh sự đối đầu trực diện với kẻ thù, cố tình bịt mắt che tai nhằm "tránh đụng độ" để giữ lấy cái mạng sống của thân phận chư hầu để còn làm "minh quân" mà "thế thiên hành đạo"! Thế rồi thật trớ trêu, tôi bị hụt hẫng một cách thảm hại khi cách đây mấy tuần, trong "Mênh mông thế sự để gió cuốn đi" số 48 tôi hí hửng đăng bài nói của ông tướng Hùng này thêm lời bình với mấy ông bạn thân quanh ấm trà nóng: "Mừng quá, với cách tư duy này mà hắn lọt được vào TƯ thì tôi dám nói rằng hắn sẽ là bộ óc khá nhất trong TƯ, và kiểu tư duy này mà lọt được vào BCT thì hắn cũng sẽ không còn là đầu gỗ, đầu đất đâu mà sáng giá nhất trong mười mấy "tinh hoa của tinh hoa dân tộc"cũng nên"! Tôi hào hứng dẫn ra những lời có cánh của một "nhà" cứ tạm gọi là "kỹ trị" đó như chép dưới đây: "Cách mạng 4.0 đột phá về việc học: Chung qui chỉ có một chữ là LÀM NGƯỢC. Cách mạng 4.0 mở ra một cơ hội về sự làm ngược nhưng mang lại kết quả bất ngờ, cơ hội của các đột phá, cơ hội cho những người đi sau, nhưng không phải những người đi sau mong muốn giống người đi trước, đi theo cách này thì mãi mãi là người đi sau. Đi sau, nhưng làm khác người đi trước, các công cụ 4.0 chủ yếu hỗ trợ cho sự làm khác, làm ngược, bằng cách này chúng ta sẽ đi trước một cách vượt trội các nước đi trước chúng ta. 4.0 đi liền với từ Distructive, tức là phá huỷ, đột phá. Gọi là sự sáng tạo mang tính phá huỷ. Người có quá nhiều quá khứ hoành tráng, có quá nhiều hạ tầng 1.0, 2.0, 3.0 sẽ không có đủ can đảm phá huỷ, chỉ có những ai đang không có gì hay có rất ít thứ trong tay. Chúng ta đang có mọi thứ để thắng vì chúng ta không có gì trong tay, không có gì để mất"… "- Trước đây: Học để làm cái đã học, cái mọi người đã làm. Bây giờ: Học để làm cái chưa ai làm; tức là sáng tạo. - Trước đây: Học sự tiệm cận, học sự tiến hoá, tốt lên từng ngày. Bây giờ: Học để đột phá, cuộc CM 4.0 sẽ tạo ra những đột phá, cái mới thay thế cái cũ. Để phá huỷ thay vì tiến hoá…" Nghe thật khoái cái lỗ nhĩ! Tuy vậy, cũng phải sòng phẳng mà rằng, những điều ông Hùng nói thì người ta cũng biết từ lâu, từ thời chưa có "cách mạng 4.0" rồi cơ, chỉ là dưới dang những luận giải triết học. Chỉ nói hết sức hạn hẹp trong tầm hiểu biết của người đang viết những dòng này, thì trong tủ sách của tôi đang còn giữ tập bản thảo "Phạm trù người" viết tháng 2.1983 của Hồ Ngọc Đại, bạn tôi. Đây là một tiểu luận khoa học về một chủ đề triết học được trình bày một cách hệ thống với đúng 400 trang đánh máy [vào thời điểm ấy chúng tôi chưa biết đến máy vi tính] gồm cả 9 trang mục lục và sách tham khảo, Đại đưa tôi đọc để tính chuyện xuất bản. Sẽ là vô duyên nếu lải nhải thuật lại nội dung một luận văn triết học, tôi chỉ điểm môt hai ý có liên quan đến những ý tưởng sáng giá của ông tướng tôi vừa trích ở trên. Chẳng hạn như "Vượt qua nguy hiểm bằng cách tạo ra nguy hiểm", hoặc "Đi theo đội hình hình thoi"…, 2 trong 110 tiêu đề của luận văn ấy. Trong "Phạm trù người", tôi hiểu được ý của bạn tôi theo tầm hạn hẹp của mình, vắn tắt như sau: Bước khởi đầu là phá vỡ sự đồng nhất giữa loài và cá thể nhằm thực hiện sự thống nhất trên một cơ sở khác theo nguyên tắc "vectơ đường chéo hình bình hành" với nghĩa rằng lịch sử là một sự vận động trong thế giữa nhiều lực lượng tìm ra một vectơ đường chéo hình bình hành, vạch ra con đường đi của nó. Ngay từ đầu và cho đến bây giờ và mãi mãi, những lực lượng ấy, vectơ đường chéo ấy vẫn do các cá nhân hiện thực tạo ra nhưng không hề phụ thuộc vào cá nhân họ. Chỉ có cái vectơ đường chéo kia mới đích thực là lịch sử hiện thực được phản ánh bằng triết học (cả về chiều dài lẫn độ lớn tuyệt đối). Một khi sai lầm trong thực tế được khắc phục, biến nó thành hành vi cư xử đúng trong đời sống số đông, thì hành vi ấy lập tức mất hết khả năng hấp dẫn, trở thành sai lầm triết học. Cái gọi là sai lầm triết học ấy chính là lịch sử hiện thực, là thành tựu đích thực của phạm trù người. Phạm trù người sẽ từ bỏ nó bằng cách đi tìm một sai lầm mới, rồi cứ như thế. Lịch sử không sai lầm. Không có một thời đại nào gọi là sai lầm. Muốn có được năng lực… sai lầm, thì cá thể phải ở ngay "đầu mút" phía trước [hãy hình dung đầu mút của một chiếc gậy có hai đầu], nơi tiếp giáp ở ranh giới sai lầm triết học [tức là những thành tựu lịch sử đã được khẳng định] và sai lầm thực tiễn [tức là những khả năng sai lầm đang đặt ra cho các cá thể]. Cũng có nghĩa là số đông không còn năng lực sai lầm nữa. Những gì đã trôi vào quá khứ là đã thuộc về quá khứ, không trở lại một lần thứ hai. Trong tiến trình thời gian, lịch sử không thể làm lại những việc đã trôi vào quá khứ, không thể "sửa chữa sai lầm", cố lắm là chỉ có thể tiếp tục làm tiếp mà thôi như vừa nói. Bởi vậy mới có thể lập luận ngược đời: chính những sai lầm [và khắc phục nó] đã đẩy lịch sử đi tới, mà đương nhiên phải đi tới trong đội hình hình thoi chứ không thể "dàn hàng ngang" mà cùng tiến được! Làm thui chột hay tước bỏ vai trò của bộ phận tinh hoa ở mũi nhọn hình thoi ấy thì đất nước sẽ tan hoang, bung bét như hôm nay! Đó là chuyện dễ hiểu! Nói đến đội hình hình thoi thì một bản thảo về phương pháp luận tư duy trước đó, nhân trao đổi một đề tài về đạo đức học gắn với mỹ học, Hồ Ngọc Đại đã viết ra 445 trang đánh máy để tranh cãi với luận điểm của tôi về nghiên cứu đạo đức học, tôi dẫn ra đây 3 trong 67 tiểu mục mà nếu đọc kỹ có thể lần ra những mệnh đề mà nội dung của nó cũng na ná như ý tưởng của tướng Hùng nói tại Đại học Công nghiệp Hà Nội tháng 2.2018 vừa qua: "Các chân lý khoa học luôn luôn ngược đời", phải chăng đây cũng chính là cái "làm ngược" mà ông tướng nọ nói. Hoặc "Hoàn thiện để vứt bỏ", e cũng là một dòng tư duy về phá huỷ thay vì tiến hoá, hay "Cái tài là lõi thép cho cái đức bám vào"… Ở đây, Hồ Ngọc Đại sổ toẹt những lời rao giảng mùi mẩn về đạo đức mà đưa ra cái tiêu chuẩn để lột trần thói đạo đức giả. Cái tiêu chuẩn đó là việc làm! Cái mà ông tướng Hùng nói "Làm trước học sau; trải nghiệm trước học sau thì vào hơn. Đại học cần cho các em làm nhiều hơn, làm trước khi học" chắc cũng là cái "việc làm" này đây. Việc làm là nền tảng của tất cả mối quan hệ, không có ngoại lệ. Bạn tôi lập luận: "Chân lý ấy chưa bao giờ bị nghi ngờ. Và chỉ vì tính nghiêm ngặt sắt thép của nó mà người khôn khéo tìm cách bọc nó bằng nhung để đỡ xây xát cho người đời hoặc sơn lên nó một màu tươi mát, che đi cái thô lỗ sắt thép. Nhưng dù là bọc bằng nụ cười, bằng sự khiêm nhường, hay sơn bằng những cử chỉ lịch thiệp, thì cái lõi thép vẫn cứ nguyên một độ cứng rắn của thép… Lịch sử trụ được là nhờ cái lõi thép đó"! Dẫn ra vài dòng nói trên không nhằm phủ nhận chuyện ông tướng Hùng đã làm được một việc đáng nể là nói lên điều ấy chứ không ngậm miệng ăn tiền, một thói quen khó bỏ của kẻ mon men trèo vào cái ghế quyền lực để còn leo lên cao dần! Chỉ riêng một ý: "Trước đây: Nghe theo là quan trọng, học thuộc là quan trọng. Bây giờ: Tư duy phản biện là quan trọng, critical thinking" cũng đáng đóng khung trang trọng treo lên trước mũi của phòng làm việc của các ông kễnh, nhất là những người "có lý luận" đang ra sức hàng ngày, hàng giờ "soi đường chỉ lối" để trị cái trọng bệnh "tự diễn biến, tự chuyển hóa" cực kỳ nguy biến cho "đảng ta"! Nhưng rồi tôi như cầu thủ việt vị bị thổi còi với tuyên bố của ông thiếu tướng vừa ngồi vào ghế bộ trưởng là: trên mặt báo chỉ nên chiếm 10% tin xấu thôi. Theo ông ta, nếu cái xấu xuất hiện với tỉ lệ 30% trên mặt báo nghĩa là cái xấu trở thành cái chính của xã hội. Ở mức độ thấp hơn, khi lượng tin bài về "cái xấu" chiếm 20% thì đó là báo hiệu "cái xấu có xu hướng trở thành cái chính trong xã hội". Ấy, thế thì chết, các lực lượng thù địch bấu vào đó mà thổi thêm lên để chống chế độ ưu việt của chúng ta. Đâu được. Cho nên, ở mức độ 10% mặt báo nói về "cái xấu" cũng là đủ sức răn đe để sửa lại mình chứ không là cái chính của xã hội. Vì rằng có mà điên để vạch áo cho người xem lưng! Có lẽ hơn nửa thế kỷ trước, trùm phát xít Adolf Hitler chỉ đạo: "Nếu nói dối đủ lớn và cứ tiếp tục lặp đi lặp lại lời dối trá của mình, quần chúng rồi sẽ tin vào lời dối đó". Cánh tay đắc lực của y là Joseph Goebbels, Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền thực hiện một cách rất "đột phá và sáng tạo" ý tưởng của ông trùm "Bằng tuyên truyền khôn ngoan và dai dẳng, người ta có thể khiến cho quần chúng nghĩ rằng thiên đường là địa ngục, địa ngục là thiên đường". Bọn ấy kém kiến thức toán học, hay nói như ông tướng nọ: "Trước đây: Toán không quan trọng, có vẻ như ít tạo ra giá trị. Bây giờ: Toán là quan trọng nhất. Xử lý dữ liệu là quan trọng nhất. Mà chỉ có toán, thuật toán mới xử lý dữ liệu để mang lại giá trị. Thuật toán hiệu quả hơn sẽ mang lại nhiều giá trị hơn" cho nên không tính ra được tỷ lệ nói dối bao nhiêu là vừa, lặp đi lặp lại sự lừa bịp với tần suất của loa tuyên truyền mở hết cỡ là 30%, 20%, hay 50%, 100% thì sẽ biến địa ngục là thiên đường, nên nhà nước của Đức Quốc xã của Đức Quốc xã đã sụp đổ tan tành! Ngài thiếu tướng chắc đủ kiến thức để hiểu điều ấy, mềm dẻo và cao thủ hơn, ngài tân Bộ trưởng đang vận dụng cái luận đề ông từng dõng dạc cao đàm khoát luận trên một "đột phá sáng tạo" mới toanh: "Trước đây: Thực là quan trong, dạy cái thực là chính. Bây giờ: Mọi cái thực đã được ảo hoá, vậy ảo là quan trọng; dạy cái ảo là chính, dạy sống và làm việc trong môi trường ảo. Dạy sáng tạo trên môi trường ảo". Chắc là bằng lời chỉ đạo này thì thực trạng tồi tệ đang diễn ra chỉ là "cái ảo" hiểu theo nghĩa bình dân, chỉ bằng một nghiêm lệnh không được lột trần nó ra, phơi bày giữa bàn dân thiên hạ thì cái ảo đó sẽ biến mất! Vậy thì cái "why" thần kỳ mà ông tướng nọ đùng đoàng huấn thị sẽ phải là cái "why" này: "Tệ nạn tham nhũng, cán bộ hư hỏng có cả nhưng nhìn tổng quát lại đất nước ta có bao giờ được thế này không?" (Lời vàng ngọc của ông Nguyễn Phú Trọng tại xã Phật tích, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh, Vietnamnet đưa tin ngày 13.11.2016). Đấng minh chủ đã hạ chiếu phải nhìn sự vật biện chứng như vậy thì "Trước đây học What, học How là quan trọng. Bây giờ học Why là quan trọng. Biết tại sao thì mới dám thay đổi". Chẳng những thế, "Trước đây: Cạnh tranh là làm giống người khác và làm tốt hơn. Bây giờ: Cạnh tranh là khác biệt, là làm khác người khác", thì chẳng phải là "đảng ta" đang làm khác với thế giới là gì? Thành tựu của văn minh của nhân loại nhằm hạn chế bớt đi thói quen độc đoán của quyền lực bằng nguyên lý tam quyền phân lập thì cái "đột phá sáng tạo", của "đảng ta" là vứt bỏ và thậm chí ai dám vương vấn đến cái đó là thoái hóa đạo đức, suy thoái tư tưởng! Chính vì thế, những đùng đoàng trong cao đàm khoát luận về distructive, về critical thinking cứ ầm ầm như đại bác bỗng… tịt ngòi. Đúng là con đà điểu đã bị hàm oan là rúc đầu vào để lẩn tránh kẻ thù do sự hạn chế của công nghệ quan trắc cách nay 2000 năm, nhưng con người thì "xuất sắc" hơn con đà điểu là giữa thế kỷ XXI đang biến đổi với cách mạng 4.0, vẫn quyết rúc đầu vào cát. Để làm gì? Để tiến lên nấc cao hơn trong bậc thang quyền lực và danh vọng! Thế mới biết cái ghế quyền lực đã làm thui chột và băng hoại trí tuệ, bản lĩnh làm người khủng khiếp quá. Khái quát của Lord Acton thế kỷ XIX xem ra chưa đủ với sự tiến triển của thể chế quyền lực toàn trị và ham hố một cách quái đản như hiện nay: "Quyền lực có xu hướng tham nhũng. Quyền lực tuyệt đối thì tham nhũng cũng tuyệt đối"! Cái tuyệt đối ấy trở nên khủng khiếp hơn, nhầy nhụa hơn khi người ta dám công nhiên bác bỏ tam quyền phân lập, ai nhắc đến điều đó là biểu hiện của thoái hóa về đạo đức, suy thoái về chính trị như ông Nguyễn Phú Trọng phát biểu ở Vĩnh Phúc dạo nào đã nói ở trên và rồi điều ấy được đưa thành nguyên tắc của đảng trong Quy định số 102-QĐ/TW! Ngài Acton chưa hiểu được giữa thế kỷ XXI mà ông Trọng và cái đảng của ông ấy vẫn khăng khăng bác bỏ nhà nước pháp quyền đích thực với nguyên lý tam quyền phân lập. Chế độ toàn trị phản dân chủ đã vận dụng luật rừng với công dân của mình. Hơn thế nữa, còn xuất khẩu cái đó ra nước ngoài để nhận được danh hiệu "Việt Nam là tâm điểm của tội phạm có tổ chức", "Quốc gia này đã trở thành nguy cơ an ninh hàng đầu" như lời tuyên bố của cựu Bộ trưởng Ngoại giao Czech Lubomír Zaorálek! Chẳng lẽ cái đuôi xã hội chủ nghĩa gắn vào nhà nước pháp quyền của ông Trọng chính là cái này sao? Hãy chi dẫn ra một sự kiện vừa bị công luận phẫn nộ lên án: Tối 15/8/2018, rất đông công an TPHCM cùng nhân viên liên ngành và những phần tử không rõ chức trách đã xông vào buổi trình diễn ca nhạc của ca sĩ Nguyễn Tín tại một quán giải khát nhỏ. Lấy cớ kiểm tra giấy phép biểu diễn và kiểm tra giấy tờ những người tham dự, họ đã xử sự rất thô bạo với những người có mặt, kể cả người già, phụ nữ; bắt bớ, đánh đập dã man một số người. Ca sĩ biểu diễn Nguyễn Tín và người quản lý biểu diễn Nguyễn Đại sau đó đã bị bắt đưa đi thẩm vấn, rồi trùm đầu đưa ra vứt giữa rừng cao su xa thành phố trong đêm khuya. Đặc biệt một khán giả là nhà báo nữ Phạm Đoan Trang đã bị đánh hội đồng với hung khí, phải vào bệnh viện cấp cứu với những triệu chứng chấn thương sọ não (dẫn theo tuyên bố của nhóm "Lão mà chưa an cùng với các thân hữu"). Những hành động nói trên không là luật rừng thì là luật gì, hay phải diễn đạt là "luật ông Trọng" cho sang. Nếu vậy thì theo ông tướng Hùng vừa ngồi vào ghế Bộ trưởng Thông tin và Truyền thông, chỉ được đưa 10% cái xấu lên mặt báo thì, những ông Tổng Biên tập quyết cung cúc tận tụy với cấp trên trực tiếp để còn giữ cái cần câu cơm và khát vọng thăng tiến cao hơn trong quan lộ phải chọn những gì đây? Thôi thì chỉ một hình ảnh đánh đập nữ nhà báo Phạm Đoan Trang bằng những chiêu ra đòn có nghề của bọn cao thủ chuyên nghiệp bạo hành với dân, mà trên mạng đang phơi ra, chắc cũng vừa vặn 10%. Phần còn lại thì biếu không ngài tân Bộ trưởng để lưu vào hồ sơ, sẽ hữu dụng sau này khi cần chứng minh là mình kiên định lập trường chống bọn thù địch, không mị dân theo đuôi làm vừa lòng công chúng. Vả chăng, vị tướng trẻ trung và đầy rẫy tri thức khoa học cập nhật này chỉ mới dính sơ qua chút bùn bẩn trên Cánh Đồng Sênh ở xã Đồng Tâm khi Viettel định câu kết với đám tham nhũng địa phương để cướp ngon mảnh đất ông cha để lại của những người nông dân thôn Hoành mà tôi đã có dịp nêu lên trong Mênh mông thế sự chủ đề Đồng Tâm dạo ấy, chứ chưa nhơ nhớp như vị cựu Bộ trưởng Thông tin & Truyền thông bị lột chức, một cánh tay đắc lực của ông Trọng, vừa là Bộ trưởng vừa là Phó Ban Tuyên giáo, nắm quyền sinh quyền sát trên trận địa tư tưởng và đời sống tinh thần của xã hội vừa bị phơi mặt là kẻ tham nhũng một cách hung hãn và trơ trẽn. Của đáng tội, chuyện đưa cái xấu lên mặt báo thế nào, để không đầu độc bầu không khí xã hội vốn đã quá nhiều cái xấu đập vào mắt, dội vào tai, chen vào bữa cơm gia đình của số đông đang đạm bạc và thiếu thốn, nhất là khi đang phải trằn lưng đối phó với dồn dập thảm họa môi trường, những cơn thịnh nộ của thiên tai thì việc quy định 10%, 20% hay bao nhiêu phần trăm đi nữa cũng là điều mà người quản lý thông minh phải cẩn trọng và trung thực cân nhắc, suy nghĩ. Xã hội nào rồi cũng phải tính đến chuyện đó thôi. Chỉ có điều, mọi cái phải công khai minh bạch. Ác một nỗi, thể chế toàn trị phản dân chủ không cho phép tự do tranh luận để đưa ra những giải pháp tối ưu. Tất cả đều quy về cái đầu toàn trị, phản dân chủ, đối lập với dân bằng mọi thủ đoạn. Một cái thể chế hủ lậu mà từ đầu thế kỷ XX "Cáo hủ lậu văn" của các cụ trong Đông Kinh Nghĩa thục đã phẫn nộ lên án e vẫn có điểm tương đồng: "Mắt dòm chính, học chưa ra, Lại chê người bá mà nhà ta vương… Tiếc thay sách hủ giữ bền, Khác nào như mọt nghiến bên mình người". Trớ trên thay, sự hủ lậu ấy lại đang chiếm giữ cái ngai thống trị. Tụng niệm những giáo điều cũ rích mà thiên hạ đã vứt bỏ, dựng dậy cái mô hình đã từng đưa Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, rồi theo cái thể chế nhiễm sâu tập quán phong kiến của ngàn đời chưa tẩy rửa được vì cái lõi thép quá yếu, cái mà xã hội dựa vào đó mà tồn tại và phát triển, như phân tích ở trên, đã bị han rỉ và héo mòn vì sự húy kỵ trí thức và người tài, lo sợ phản biện vì quen thói mệnh lệnh áp đặt, lấy đâu ra tri thức mà tranh biện. Nếu nói sâu xa hơn thì đấy chính là cái ảo tưởng bỏ qua chủ nghĩa tư bản để tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội khiến đất nước "trở nên bệ rạc và què quặt từ suốt gần nửa thế kỷ" như đã dẫn ra trong bài trước. Với những gì đang được rao giảng đối chiếu với thực trạng đau đớn của đất nước càng thấm thía hơn với kiến giải của K. Marx: "Chúng ta đau khổ không phải vì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà đau khổ vì sự phát triển chưa đầy đủ của nó. Ngoài những tai họa của thời đại hiện nay ra, chúng ta còn phải chịu đựng cả một loạt những tai họa kế thừa do chỗ các phương thức sản xuất cổ xưa lỗi thời vẫn tiếp tục sống dai dẳng với những quan hệ chính trị và xã hội trái mùa do chúng đẻ ra". Thật đau đớn phải chịu đựng cả một loạt tai họa kế thừa thể hiện trong sự yếu kém và lạc hậu về kinh tế, về văn hóa, về khoa học và công nghệ, hệ lụy trực tiếp của của những "quan hệ chính trị và xã hội trái mùa" như một thây ma đã thối rữa nhưng không chịu chôn. Chính vì lẽ đó mà tôi vội vã vui mừng với quan điểm của ông thiếu tướng Nguyễn Mạnh Hùng về sự sáng tạo mang tính phá huỷ. Cho nên "Trước đây: Học sự tiệm cận, học sự tiến hoá, tốt lên từng ngày. Bây giờ: Học để đột phá, cuộc CM 4.0 sẽ tạo ra những đột phá, cái mới thay thế cái cũ. Để phá huỷ thay vì tiến hoá". Vì thế mà "Trước đây: Học trước rồi làm sau. Bây giờ: Làm trước học sau; trải nghiệm trước học sau thì vào hơn". Đặc biệt là biết và dám hỏi tại sao. Ngoài những What, Who và quan trọng hơn là Why, đã dẫn ra, ông còn nhấn mạnh: "Trước đây: Người thay đổi thế giới là người nói, là người đi khai sáng người khác. Bây giờ: Người khai sáng người khác, người thay đổi thế giới lại có thể là người hỏi một câu hỏi". Những điều nói trên là cực kỳ cần thiết cho cách tư duy của những người đang gánh trọng trách xã hội. Dám nói lên những điều đó đã là một cuộc cách mạng trong đầu óc của họ, trừ những cái "đầu gỗ, đầu đất" không có bộ óc. Khi họ dám đột phá để sáng tạo cái mới thay vì tụng niệm cái cũ đã ôi thiu thì dân được nhờ, đất nước đỡ buồn tủi, xã hội được khởi sắc. Tôi vội vã mừng vì đã có một quan chức hiếm hoi dám nói lên những điều dễ động chạm và kiêng kỵ đó. Nhưng của đáng tội, đó không có gì là bí hiểm cả, nó mới, vì có người dám nói lên trên chốn quan trường và trên trang báo chính thống. Sòng phẳng mà nói, người ta đã biết từ lâu, ở những nước văn minh, nơi có tự do tư tưởng, tự do hoài nghi để đặt ra câu hỏi. Thì chẳng phải Einstein đã từng khẳng định điều quan trọng là không ngừng đặt câu hỏi đó sao! Và những gì đã và đang diễn ra khiến tôi thấm thía hơn lời nói có dáng dấp bông đùa song thấm đẫm vị triết lý: "Chúa Trời rất khó hiểu nhưng không ma mãnh"! Thì đó, đã có người xào nấu mệnh đề của Einstein "Chính trị chỉ cho hiện tại, nhưng phương trình là mãi mãi" thành một cái gì đó na ná đầy sự ma mãnh xuyên tạc: "Chính trị cần cho hiện tại, nhưng quyền lực và tranh chấp quyền lực là mãi mãi". Và vì thế, người ta sẵn sàng thay đổi phương trình, thậm chí lộn ngược phương trình! Chính sự ma mãnh của những người có hiểu biết, sẽ biến tri thức thành công cụ lừa bịp để phục vụ cho quyền lực. Hệ lụy của sự ma mãnh đó trút cả lên vai người dân khốn cùng và những người dám đột phá vào cái thành lũy của thể chế toàn trị phản dân chủ sặc mùi phong kiến được tân trang. Vậy thì, "giọt nước mắt thương dân, dân mình phận long đong" sẽ chảy đến khi nào thì dừng đây? Khi "vận nước điêu linh" thì "giọt nước mắt không tên, xin để lại quê hương" sẽ còn chảy đến bao giờ? Chẳng lẽ cứ để "Dòng nước mắt chảy hoài. Dòng nước mắt đời đời". Hãy để cho "dòng nước mắt trong tim chảy lai láng vào hồn" giục giã con người đặt câu hỏi tại sao có dòng nước mắt đó. Thì như ông tướng kia trong một cảm xúc thăng hoa bất chợt đã dám tung ra trên mặt báo chính thống "biết tại sao thì mới dám thay đổi"! Tại sao dân mình phận long đong? Tại sao vận nước điêu linh? Tại sao chúng nó có thể tàn nhẫn và hung hãn đến vậy, ai cho phép, ai nặn ra chúng? Đặt ra câu hỏi chính là đã tìm được cách trả lời. Ngày 19.8.2018 T. L. Tác giả gửi BVN. |
Việt Nam đã cạn nguồn vay ODA từ năm 2014! Posted: 21 Aug 2018 06:49 PM PDT Phạm Chí Dũng
Đồng hồ nợ công của tạp chí The Economist nêu con số nợ công của Việt Nam vào ngày 16/7/2017 là hơn $94 tỉ. (Hình: Trích từ website của The Economist) 2018 rất có thể là năm chứng kiến sự sụt giảm thảm thiết nhất của nguồn vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) vào Việt Nam, bổ túc một dấu ấn cho năm 'thắng lợi kinh tế chưa từng có' theo lối tuyên truyền không còn biết trời cao đất dày của chính thể độc đảng này, chìm nghỉm trong bức tranh tổng thể mang gam màu xám ngoét - được đặc tả bởi sự phối ngẫu của ba thành phần 'binh chủng hợp thành': nợ công - nợ xấu - ngân sách. Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn 'xin tiền' không biết mệt mỏi. Chỉ bằng 1/7!Tròn một năm sau thời điểm Việt Nam chính thức không còn nhận được ưu ái trong kênh vay ODA từ các tổ chức tín dụng quốc tế, một bản báo cáo của Bộ Tài chính vào tháng Bảy năm 2018 cho biết lũy kế 6 tháng đầu năm 2018, Việt Nam đã ký kết được 4 hiệp định với vay ODA với tổng trị giá 193,2 triệu USD. Báo cáo trên cũng phải thừa nhận rằng ước tính giải ngân nguồn vốn vay ODA, vay ưu đãi chỉ bằng 21% kế hoạch và thấp hơn so với cùng kỳ năm trước. Giá trị ký kết ODA của nửa đầu năm 2018 trong báo cáo trên cho thấy trong nguyên năm 2018, Việt Nam chỉ có thể đạt được giá trị ký kết ODA khoảng 400 - 500 triệu USD, tức chỉ bằng khoảng 1/7 giá trị ký kết bình quân 3,5 tỷ USD/năm của giai đoạn 1993 - 2014 (tổng vốn đã ký kết của giai đoạn này là 73,68 tỷ USD). 1993 là thời điểm mà Việt Nam đã mở cửa kinh tế được vài năm và bắt đầu được nhận nguồn vốn ODA ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn của một số chính phủ Thụy Điển, Đan Mạch, Nhật Bản… và các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB)… Sau năm 2015 là thời điểm mà quan hệ Việt - Mỹ được bình thường hóa hoàn toàn, dòng chảy ODA vào Việt Nam đã từ suối biến thành sông, mở ra một thời kỳ 'tiền vào như nước sông Đà' và cũng biến hóa thành thời hoàng kim của giới quan chức Việt 'ăn không chừa thứ gì' đối với tiền ODA được xem là 'lộc trời'. Nhưng sau hai chục năm nhận 'lộc trời', ODA đã trở thành một trong những bi kịch 'vĩ đại' nhất của chính thể Việt Nam. Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải "đề nghị Ngân hàng Thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay" - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá nặng về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm 'đổ vỏ' cho đời thủ tướng trước bị xem là 'phá chưa từng có' là Nguyễn Tấn Dũng… Vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một 'bí mật quốc gia' mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm: ông Huệ đề nghị Mỹ "mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam". Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0. Tiền nào cũng là tiền. Viện trợ không hoàn lại là tiền của người dân các nước phát triển đóng thuế cho chính phủ, và những người dân này sẽ phẫn nộ đến mức nào khi biết tiền của họ đã bị một quốc gia nằm trong nhóm đầu thế giới về tham nhũng như Việt Nam "ăn không chừa thứ gì". Hiện thời, cần nhìn nhận một sự thật mà có lẽ giới tuyên giáo Đảng ở Việt Nam chẳng hề muốn đả động: những chuyến công du quốc tế của giới chóp bu Việt Nam diễn ra trong bối cảnh Việt Nam đã bước vào năm suy thoái kinh tế thứ 10 liên tiếp, nợ xấu ngập đầu còn nợ công phi mã đến 210% GDP, ngân sách có nguy cơ cạn kiệt, trong lúc các kênh "ngoại viện" gần như đóng lại. Bị phát hiệnMỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể 'không hẹn mà gặp' đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà 'Đảng và Nhà nước ta' đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua: từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0. Vào tháng Tám năm 2015, Ban Kinh tế Trung ương đã chủ trì tổ chức Hội thảo "Hoạt động ODA tại Việt Nam - 20 năm nhìn lại" tại Đà Nẵng. Thông tin được tuyên truyền khi đó đầy màu sắc thành tích: "Hơn 80 tỷ USD vốn ODA dành cho Việt Nam giai đoạn 1993-2014" (https://baodautu.vn/hon-80-ty-usd-von-oda-danh-cho-viet-nam-giai-doan-1993-2014-d30863.html). Đến tháng Bảy năm 2018, một quan chức Phó Thủ tướng Chính phủ là Phạm Bình Minh khi tham dự buổi làm việc về việc thực hiện chính sách, pháp luật về quản lý, sử dụng nguồn vốn vay nước ngoài giao đoạn 2011-2016, đã cho biết "Việt Nam đã tiếp nhận 80 tỷ USD vốn ODA sau 25 năm" (http://cafef.vn/25-nam-viet-nam-tiep-nhan-80-ty-usd-von-oda-20180726062228006.chn). Độ chênh của hai kết quả về viện trợ ODA từ năm 1993 đến năm 2014 (20 năm) và đến năm 2018 (25 năm) là số 0. Tức sau 4 năm, con số tổng nhận ODA vẫn chỉ là 80 tỷ USD mà không có một chút tăng tiến an ủi nào. Còn con số vài ba tỷ USD viện trợ ODA mà Chính phủ Việt Nam vẫn công bố đã nhận được hàng năm kể từ năm 2015 đến nay thực ra chỉ là số chưa được giải ngân trong những năm trước, mà chỉ được giải ngân trong những năm gần đây (trong giai đoạn 1993 đến 2014, vốn ODA và vốn vay ưu đãi giải ngân đạt 53,89 tỷ USD, chiếm trên 73,2% tổng vốn ODA đã ký kết). Có chịu cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền?Con số Việt Nam vay ODA của nước ngoài từ năm 1993 đến năm 2014 đã lên tới 80 tỷ USD. Sau khi trừ đi 10 - 12% vốn vay không hoàn lại trong số đó, mỗi năm ngân sách Việt Nam phải có trách nhiệm trả nợ quốc tế hàng chục tỷ USD. Mà muốn trả được số nợ này, Việt Nam lại phải tìm cách "vay đảo nợ" của các tổ chức tín dụng quốc tế. Trước đây, những tổ chức này vẫn cho Việt Nam vay vốn "đầu tư phát triển" và vay đảo nợ khá dễ dàng. Nhưng đến năm 2015, WB bất ngờ thông báo hai "tin buồn" cho Việt Nam: Việt Nam đã "tốt nghiệp IDA" mà sẽ không được xếp vào loại quốc gia "xóa đói giảm nghèo"; và từ tháng 7/2017 sẽ không được vay với lãi suất ưu đãi 0,7 - 0,8%/năm cùng thời gian ân hạn đến 30 - 40 năm như trước đây, mà mức lãi suất vay sẽ được nâng lên gấp ba và thời gian ân hạn giảm xuống một nửa. Trong khi đó, ngân sách Việt Nam vẫn buộc phải làm cái chuyện vừa lo trả nợ vừa phải tiếp tục vay mượn vượt hơn đến 30% số trả nợ hàng năm để phục vụ các khoản chi tiêu thường xuyên khổng lồ của bộ máy gần 4 triệu công chức viên chức và lực lượng vũ trang với 30% 'không làm gì cả nhưng vẫn lãnh lương'. Trong đó tỷ lệ chi cho lực lượng công an ở Việt Nam lên đến 12% chi ngân sách - một mức chi cực kỳ lớn cho đội ngũ công an chuyên nghề đàn áp dân chúng và nhân quyền, chưa kể gần 5 tỷ USD chi cho bộ máy quốc phòng hàng năm nhưng không hề bảo vệ ngư dân trước tàu Trung Quốc, trong lúc lại lập kỷ lục thế giới về các vụ máy bay quân sự đắt tiền rụng như sung. Hình ảnh hiện thời thật không khác mấy mỡ treo miệng mèo. Tuy được quảng cáo vẫn còn đến 22 tỷ USD nguồn ODA chưa giải ngân, nhưng Việt Nam không những phải trả lãi suất cao từ năm 2017, mà còn phải móc tiền ngân sách để trả một phần lãi do chậm giải ngân dự án ODA. Nếu chính thể Việt Nam không cấp thiết cải cách thể chế và cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, chi tiết và bằng hành động chứ không phải lối trớt trả miệng lưỡi như trước đây, e rằng sang năm 2019 giá trị ODA mà các tổ chức quốc tế ký kết với Việt Nam sẽ chỉ là con zero to tướng. P.C.D. Tác giả gửi BVN. |
Posted: 21 Aug 2018 06:46 PM PDT Nguyễn Trung Trong thư ngỏ ngày 08-06-2016 gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và toàn thể Bộ Chính trị, tôi đã trình bầy các lý lẽ nên hoãn, tốt nhất là nên hủy bỏ dự án về 3 đặc khu kinh tế. Tham gia tọa đàm của CODE hôm nay với chủ đề "xây dựng luận cứ khoa học cho dự án ba đặc khu kinh tế", tôi xin trình bầy thêm một số ý kiến bổ sung sau đây. BỐI CẢNH KHU VỰC:Trong khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng, đặc khu kinh tế theo như mô hình nêu trong dự án đã trình Quốc hội ngày nay đã trở nên lỗi thời. Trong quá trình làm dự án 3 ĐKKT của ta, đặc khu Thâm Quyến được ca ngợi (đúng và sai) hết lời, và được coi như hình mẫu chủ yếu để biện minh cho lý lẽ ra đời 3 ĐKKT của VN. Song trong quá trình lập luận, nhiều chi tiết rất quan trọng đã bị bỏ qua. Trước hết, đặc khu Thâm Quyến ra đời năm 1980, lúc đó TQ mới có 2 năm cải cách kinh tế (bắt đầu năm 1978) nên có rất nhiều bỡ ngỡ và khó khăn ban đầu. Hơn nữa, Thâm Quyến có khu tô nhượng Hongkong rất phát triển ngay sát nách làm chỗ dựa. Trên thực tế những thập kỷ ban đầu Thâm Quyến là một khu kinh tế chủ yếu phục vục (hay khai thác) nền kinh tế Hongkong để tồn tại và phát triển. Thực tế này hôm nay về cơ bản vẫn như vậy. Nói cách khác, không có Hongkong ngay sát nách, Thâm Quyến chắc chắn không tồn tại được. Dẫn chứng cụ thể là đồng thời ra đời với Thâm Quyến còn 3 đặc khu nữa được xây dựng tại các vùng khác nhau của TQ, song cả 3 đặc khu này đều chết yểu - vì TQ chỉ có 1 Hongkong! Trong vòng 3 - 4 thập kỷ nay, tôi chưa tìm thấy ở đâu trên thế giới một đặc khu kinh tế nào thành công theo kiểu Thâm Quyến, ở châu Á càng không, kể cả ở Châu Mỹ Latinh. Thậm chí phần lớn những ĐKKT đã ra đời trong những thập kỉ trước đây hoặc đã thất bại, hoặc ngày nay đều phải biến dạng thành những cái gì khác, hoặc không còn tồn tại nữa. Đơn gỉản vì mô hình ĐKKT đã hoàn toàn lỗi thời. Trong khi đó tại một số nước phát triển thường có một số đặc khu hay tiểu vùng có những phát triển đặc thù cho những sản phẩm riêng rất đặc thù của nó. Ví dụ, đấy là những thành phố, vùng, hay khu vực của công nghiệp nhẹ, của công nghiệp nặng, sản phẩm dệt, sản phẩm công nghiệp hóa chất, sản phẩm công nghiệp tin học, sản phẩm thực phẩm hay đồ uống cao cấp, đặc khu dịch vụ tài chính, v.v. hoặc rất độc đáo như là cái nôi của phát triển công nghệ mới như thung lũng Silicon Valley - Hoa Kỳ… Song tất cả những nơi này, rất phát triển, rất đặc thù, dựa trên sự phát triển chung của quốc gia của chúng, và không mảy may có bất kỳ cái gì liên quan đến những vấn đề như chúng ta đang bàn về 3 đặc khu kinh tế như đang định xây dựng ở nước ta! Trong thập kỉ 2010s TQ đã xây dựng xong đặc khu kinh tế Sihanouk Ville, đặc khu kinh tế Botèn - Lào. Xin mời lên mạng, tốt hơn nữa xin mời đến khảo sát thực địa, để tận mắt hiểu biết thực trạng và rút ra cho nước ta những kết luận mất / còn vô cùng cần thiết phải rút ra. TQ đang muốn xây nhiều đặc khu như thế ở Myanmar, ở Nepal, ở Bhutan, ở Sri Lan Ka…, song đang bị nhân dân các nước này phản đối quyết liệt. Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng nói dự án 3 ĐKKT của chúng ta không có một chữ nào nói đến TQ không thuyết phục được nhân dân ta. Sự phát triển của cách mạng công nghiệp 4.0 chẳng những mang lại công nghệ mới trong sản xuất, trong liên kết và kinh doanh…, xây dựng nên những mạng dịch vụ chưa từng có, tạo ra những kết cấu, cấu trúc mới của các loại chuỗi cung / ứng / dịch vụ, những công cụ và phương thức mới trong huy động - phân bổ các nguồn lực, vòng đời của sản phẩm thời CMCN 4.0 ngày càng ngắn và càng sớm bị thay thế, vân vân… Có thể kết luận: CMCN 4.0 loại bỏ gần như hoàn toàn mô hình các đặc khu kinh tế như nước ta đang thiết kế và dự định hình thành. Trước chính quyền Mĩ, giới quốc phòng và nghiên cứu Mĩ chính thức nhận định TQ trên thực tế (de facto) đã chiếm và quân sự hóa xong Biển Đông, những hoạt động quân sự của TQ trên Biển Đông ngày càng gia tăng về tần suất, cường độ và tính nguy hiểm, trực tiếp uy hiếp các nước chung quanh và khu vực.., thực tế này chỉ có thể giải quyết được bằng chiến tranh. Đạo luật ngân sách quốc phòng Mĩ năm 2018 (NDAA, 716 tỉ USD) bao gồm cả những vấn đề phải xử lý liên quan đến việc TQ chiếm đóng trái phép Biển Đông. Đáp lại Tập Cận Bình tuyên bố TQ quyết bảo vệ từng tấc đất tổ tiên để lại - mặc dù theo lịch sử TQ và theo UNCLOS 1982, cũng như theo phán quyết 12-07-2016 của Tòa Trọng tài Quốc tế, tất cả đều xác định rõ ràng TQ không có lãnh thổ và lãnh hải là Biển Đông. Hành xử của TQ đang đặt ra những thách thức rất nghiêm trọng cho toàn khu vực cũng như đối với chủ quyền, sự toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và quốc phòng của nước ta. Bối cảnh này của khu vực không cho phép 3 ĐKKT như đang dự định được tồn tại ở nước ta, dù chỉ một ngày. ĐÒI HỎI CỦA NƯỚC TA HÔM NAYCác số liệu thống kê của các cơ quan Liên Hiệp Quốc (UNIDO, UNCTAD, UNDP…) và các thể chế WB, IMF, ADB… cho thấy trong khoảng 30 năm công nghiệp hóa hiện đại hóa (1986 - 2018) khối lượng của cải huy động cho sự nghiệp này (input) của Việt Nam tính theo đầu người vượt quá gấp đôi input này của Hàn Quốc trong thời kỳ CNH-HĐH 1960 - 1988. Song sự nghiệp CHN - HĐH của Việt Nam thất bại, hiện nay vẫn chỉ là một nước có công nghiệp gia công là chủ yếu. Trong khí đó Hàn Quốc thành công, và hôm nay phát triển lên là thành viên của nhóm G20. Hiện nay VN xếp hạng rất cao trong nhóm nước đứng đầu thế giới về thu hút FDI và ODA tính theo đầu người. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của VN vượt 200 GDP của VN, nghĩa là độ mở trong kinh tế đối ngoại của VN cũng rất cao và thuộc top của thế giới. Hệ thống luật pháp liên quan đến kinh tế đối ngoại và thu hút FDI của VN có thể nói là hoàn chỉnh và có khả năng cạnh tranh rất cao trong khu vực cũng như so với nhiều vùng khác trên thế giới. Nguồn lực trong nước rất lớn và đã được huy động ở mức độ cao. Đồng thời nguồn lực đất đai tài nguyên, khoáng sản, môi trường… rất to lớn của đất nước đã được huy động đến mức cạn kiệt. Hiện nay VN đã có 124 khu công nghiệp và khoảng 20 khu kinh tế các loại khác đi vào hoạt động từ 2 thập kỷ nay, song trung bình mới chỉ lấp đầy được khoảng 50% diện tích mỗi khu. Hiện vẫn còn gần 100 KCN dở dang từ hàng chục năm nay. Trong khoảng 2 thập kỷ nay VN còn thu được khoảng trên dưới 200 tỷ USD kiều hối các nguồn… Song toàn bộ những nguồn lực mọi dạng rất to lớn này không làm nên được một nước Việt Nam công nghiệp, vẫn chỉ tạo ra một nước có thu nhập trung bình thấp, có năng suất lao động chỉ cao hớn Lào, Campuchia và Myanmar một chút, kết cấu hạ tâng thiếu thốn, công nghệ của toàn bộ nền kinh tế lạc hậu, chủ yếu thuộc thế hệ 4 và 3 (nghĩa là trong khi thế giới đã bước vào CMCN 4.0, nước ta vẫn đang ở trình độ "công nghệ 4 không chấm"). Nguyên nhân của tình trạng nêu trên không phải là VN thiếu sức kéo hay lực đẩy từ bên ngoài, nếu như không muốn nói trong 3 thập kỷ vừa qua VN đã huy động một nguồn lực cực kỳ lớn cho sự nghiệp công nghiệp hóa, ít quốc gia đang phát triển nào ở thời kỳ khởi nghiệp trên thế giới hôm nay dám mơ tới. Chiến lược hoàn thành CNH - HĐH của nước ta vào năm 2020 coi như thất bại. Nguyên nhân gốc của thất bại nêu trên là trong suốt 3 thập kỷ CNH - HĐH vừa qua Việt Nam không đặt ra và vì thế đã thất bại trong việc xây dựng một thể chế chính trị và một hệ thống quản lý quốc gia để vận hành đất nước mà sự nghiệp CNH-HĐH đất nước đòi hỏi. Hệ quả là nguồn lực to lớn trong tay bị lãng phí, hủy hoại. Đồng thời tệ nạn tham nhũng tiêu cực đã triệt tiêu nội lực, bóp nghẹt khả năng tích tụ và phát huy nội lực. Ngày hôm nay động lực phát triển kinh tế của VN chủ yếu vẫn phải nhờ vào FDI cho kinh tế gia công và xuất khẩu. Trong hiện trạng của đất nước như đã trình bầy trên, không có một lực kéo nào từ bên ngoài - dù là 3 hay 30 ĐKKT như đang dự định - có thể xoay chuyển được xu thế phát triển hiện nay của VN. Thậm chí phải nói, trong tình hình nội trạng đất nước như hiện nay, càng thêm lực kéo từ bên ngoài, kinh tế đất nước càng phải dựa vào lực bên ngoài mà sống, mà phát triển; mọi hệ quả lệ thuộc và phụ thuộc sẽ còn trầm trọng hơn hiện nay, quyền lực mềm TQ càng có đất màu mỡ để trở thành rừng rú! Đòi hỏi chiến lược của VN hôm nay không phải là tăng thêm lực kéo từ bên ngoài như dự án 3 ĐKKT đang hướng tới, chưa nói đến 3 ĐKKT như đang thiết kế trong tình hình thực tế của quốc gia và của khu vực hiện nay còn chứa chấp những mối nguy khó lường vượt ra ngoài khả năng kiểm soát rất yếu kém hiện nay của đất nước, và do đó không được phép tồn tại trên nước ta, dù là một ngày! Đòi hỏi chiến lược của Việt Nam hôm nay, nhất là trong tình hình nóng bỏng hiến nay của khu vực và trên thế giới, là phải mau chóng khắc phục nguyên nhân gốc nói trên, để giải phóng và phát huy nội lực./. Hà Nội, 17-08-2018 N.T. Tác giả gửi cho viet-studies ngày 20-8-18 Nguồn: http://www.viet-studies.net/NguyenTrung/NguyenTrung_BoiCanhDacKhu.html |
Người Công giáo Việt Nam: ghét Trung Quốc lẫn Cộng sản Posted: 21 Aug 2018 06:44 PM PDT Bennett Murray Ánh Liên lược dịch Người Công giáo chỉ chiếm 7% dân số Việt Nam, nhưng đóng một vai trò lớn trong phong trào bất đồng chính kiến của đất nước. Đổi lại, họ nói, các nhà thờ bị phá hủy, các linh mục bị bắt và tôn giáo bị bôi nhọ. Trong một trang phục trắng, Cha Anton Le Ngọc Thanh từng bị bắt giữ 10 lần, bị cấm xuất cảnh, và năm ngoái, ông từng bị bôi nhọ vì tổ chức một buổi vinh danh các cựu chiến binh miền Nam Việt Nam. Cha Anton Thanh cho hay, là người Công giáo trong một quốc gia cộng sản, họ chịu nhiều sự tổn thương. '[Ở Việt Nam hay Trung Quốc] người Công giáo phải đối mặt với sự đàn áp giống nhau: nhà thờ bị phá hủy, linh mục và mục sư bị bắt, nhiều câu chuyện được viết ra để bôi nhọ người Công giáo', ông nói.
Người Công giáo đang hiệp thông với gia đình nông dân Đoàn Văn Vươn Luật tôn giáo mới của Việt Nam có phải là một màn che cho sự đàn áp chính trị không? Là một người Công giáo hoạt động chính trị, Cha Anton có vẻ cô đơn. Nhưng người Công giáo dù chỉ chiếm 7% dân số Việt Nam, họ đóng một vai trò rất lớn trong phong trào bất đồng chính kiến của đất nước. Một số người Công giáo nổi bật bị bắt giam hoặc trục xuất trong thời gian này như bà Nguyễn Ngọc Như Quỳnh, còn được gọi là Mẹ Nấm, ông Nguyễn Văn Đài, người sáng lập Hội Anh em Dân chủ - người đã lưu vong tại Đức sau khi bị kết tội. Lê Đình Lương, một nhà hoạt động ủng hộ dân chủ và là một tín đồ Công giáo tỉnh Nghệ An, bị kết án 20 năm tù và 05 năm quản chế với tội danh 'lật đổ chính quyền nhân dân'. Người Công giáo đóng vai trò nổi bật trong các cuộc biểu tình, kêu gọi bồi thường cho ngư dân bị ảnh hưởng bởi sự cố nước thải Formosa, hệ quả - các cuộc tấn công nhắm vào họ trở nên phổ biến, theo con dâu của ông Lương, bà Nguyễn Thị Xoan, người lên án các cuộc tấn công vào những nơi thờ phượng Công giáo. 'Họ thâm nhập vào các nhà thờ, phá hủy bức tượng của Thiên Chúa và Đức Trinh nữ Maria, họ xúc phạm người Công giáo bằng cách phá hủy những gì là thiêng liêng của chúng tôi', bà nói. Vào tháng Sáu, người Công giáo cũng tham gia vào các cuộc biểu tình chống lại dự luật Đặc khu kinh tế, dự luật mà nhiều người Việt Nam lo ngại sẽ cho Trung Quốc một chỗ đứng trên lãnh thổ của mình. Các cuộc biểu tình, Nhà nước Việt Nam coi là bất hợp pháp, kết cục là bị trấn áp - nhưng dự luật cũng đã bị hoãn. Sự bất mãn bắt nguồn từ một điều khoản, trong một số trường hợp, cho phép các công ty nước ngoài được thuê 99 năm trong các đặc khu kinh tế. Nhưng đối với nhiều người ở Việt Nam, điều khoản 99 năm có vẻ khó chịu hơn cả trường hợp 99 năm mà Anh từng thuê Hồng Kông trước đây, và trong khi luật không đề cập cụ thể đến Trung Quốc, nhưng người dân tin rằng người hàng xóm lớn phương bắc sẽ tận dụng tốt các điều này. Tiếp tục thúc đẩy ngọn lửa biểu tình là xu hướng chống Trung Quốc trong tâm thức người Việt Nam. Ở một đất nước nơi mọi thành phố đều có tên những nhân vật từng chống lại sự bành trướng của Trung Quốc, thì lo ngại về tham vọng khu vực của Bắc Kinh là không thể phủ nhận, và người Công giáo cũng không phải là ngoại lệ. Thật vậy, các nhà bất đồng chính kiến Công giáo của Việt Nam có một thái độ khinh thị đặc biệt đối với Trung Quốc, quốc gia có sự kiểm soát và đàn áp tôn giáo ở mức độ khủng khiếp hơn nhiều. 'Người Công giáo biết cộng sản là vô thần và họ làm những việc vì lợi ích riêng của họ chứ không phải lợi ích của người dân', Nguyễn Thị Minh Nguyệt, 36 tuổi, sống ở ngoại thành Sài Gòn, là một trong số hàng ngàn người đã xuống đường vào tháng Sáu cho biết. Nguyễn Ngọc, 36 tuổi, chia sẻ: 'Hầu như người Việt Nam ghét cộng sản Trung Quốc, nhưng tôi không ghét người Trung Quốc, tôi thông cảm với họ', Ngọc nói thêm. 'Tôi biết rằng các linh mục Công giáo ở Trung Quốc cũng đang cố gắng rất nhiều để tồn tại với những lời hứa hẹn từ Chính quyền Bắc Kinh [về tự do tôn giáo]'. Thái độ của họ dường như mâu thuẫn với quan điểm chính thống cho rằng, mối quan hệ giữa nhà thờ và ĐCS là mật thiết. Không giống như ở Trung Quốc, nơi mà hiệp hội Công giáo hợp pháp duy nhất từ chối thẩm quyền của Vatican, Chính phủ Việt Nam cho phép Hội Thánh được hiệp thông trọn vẹn với Tòa Thánh. Trong khi đó, Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo của Việt Nam, được Quốc hội thông qua năm 2016, bảo đảm quyền của người dân thực hành các tín ngưỡng được Chính phủ công nhận, miễn là các tổ chức tôn giáo báo cáo hoạt động của họ với Chính phủ. Mặc dù vậy, theo Phil Robertson, phụ trách khu vực châu Á thuộc tổ chức Human Rights Watch cho biết: 'Những gì mà nhà cầm quyền ở Hà Nội không thích là phong trào có tổ chức với sự ủng hộ của một tổ chức, cộng với nguồn lực và khả năng huy động mọi người', ông nói. 'Giáo hội Công giáo ở Việt Nam có cả hai thứ đó'. B.M. Nguồn: SCMP |
Posted: 21 Aug 2018 06:41 PM PDT Phạm Đình Trọng Thể thao không phải chỉ là sức khỏe, là thể lực của một con người, của một cộng đồng. Thể thao cũng không phải chỉ là giải trí. Nền thể thao của một đất nước trên đấu trường quốc tế là màu cờ sắc áo của một quốc hiệu, là danh dự của một quốc gia, là sĩ khí của một dân tộc, là vị thế, là tên tuổi của một đất nước trong trái tim những công dân thế giới. Hầu như rất it người dân trên thế giới biết đến sự có mặt của đất nước Croatia bé nhỏ ở góc khuất Nam Trung Âu. Nhưng ở Word Cup 2018, đội bóng đá của đất nước Croatia nhỏ bé đã thắng những đội bóng lừng lẫy của những đất nước rộng lớn và hùng mạnh. Thắng Nigeria nước lớn ở châu Phi. Thắng Argentina nước lớn ở Nam Mỹ. Thắng England nước lớn ở châu Âu. Vượt qua những tên tuổi sừng sững, đội bóng đá Croatia đi tới trận chung kết và giành cúp bạc thế giới thì người dân trên khắp hành tinh phải ngả mũ kính chào đất nước Croatia và ghi nhớ tên dân tộc Croatia trong gia đình nhân loại. Vì màu cờ sắc áo, vì vị thế, danh dự, sĩ khí của đất nước chính là vì lòng yêu nước. Nhưng thể thao không chỉ là lòng yêu nước. Thể thao có sức thu hút rất lớn, có năng lực tập hợp lực lượng dân chúng khổng lồ. Thu hút, tập hợp người dân, kích thích lòng yêu nước của người dân tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, đó là chính trị. Về mặt này, thể thao đã làm cả chức năng tuyên giáo của các cơ quan thông tấn báo chí. Để thể thao làm được như vậy, nhà nước đã phải đầu tư mỗi năm hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân cho thể thao để thu về danh dự, sĩ khí cho đất nước, thu về niềm hưng phấn, lòng tự hào dân tộc cho người dân. Cũng như hàng năm, nhà nước đã đầu tư hàng ngàn tỉ tiền thuế của dân cho các cơ quan truyền thông nhà nước như Thông tấn xã, Đài Phát thanh tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, VTV, để thu về cho nhà nước, cho thể chế khoản lãi vô giá về chính trị. Nhắc đến điều này để nhớ rằng Đài Truyền hình quốc gia không phải là đơn vị kinh doanh, hạch toán lỗ lãi bằng giá trị đồng tiền. Mà phải hạch toán bằng giá trị văn hóa, giá trị tinh thần, giá trị chính trị. Người dân xem các chương trình thể thao không phải chỉ để giải trí và đài truyền hình phát sóng chương trình thi đấu của đội tuyển thể thao quốc gia không được phép tính toán lỗ lãi bằng đồng tiền. Các đội tuyển thể thao của đất nước đổ mồ hôi sôi nước mắt đua tranh ở đấu trường quốc tế vì lòng yêu nước, vì danh dự Tổ quốc. Vì vậy đài truyền hình phải coi phát sóng những cuộc đua tranh cao cả đó là nhiệm vụ chính trị hàng đầu của đài. Vận động viên thể thao ra đấu trường quốc tể đổ mồ hôi sôi nước mắt vì danh dự quốc gia như người lính ra trận. Họ rất cần có tấm lòng của hậu phương, của gia đình quê hương luôn đồng hành cùng họ. Đó là liều đô-ping tinh thần vô cùng to lớn. Hành trình thi đấu của họ được truyền hình trực tiếp về quê nhà là sự đồng hành vô cùng cần thiết và quí giá đó. Người đứng đầu Đài Truyền hình quốc gia tính toán rằng gói truyền hình Asiad 2018 phải mua với giá X tỉ đồng. Thu quảng cáo chỉ được Y tỉ đồng. Còn lỗ đến Z tỉ đồng. Từ đó cho rằng mua gói truyền hình Asiad 2018 là xa xỉ thì đó là tính toán của người chỉ quen buôn bán cò con, buôn đầu chợ, bán cuối chợ của một tư duy quá nhỏ nhen, thiển cận, lạc lõng, không xứng phương diện quốc gia của người đứng đầu VTV, nơi mỗi năm nhận hàng trăm tỉ tiền thuế của dân để làm công tác chính trị, văn hóa, tinh thần cho nhân dân, cho đất nước. P.Đ.T. Tác giả gửi BVN |
You are subscribed to email updates from Bauxite Việt Nam. To stop receiving these emails, you may unsubscribe now. | Email delivery powered by Google |
Google, 1600 Amphitheatre Parkway, Mountain View, CA 94043, United States |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét