“TẠI SAO HÀN QUỐC PHÁT TRIỂN RỰC RỠ?” plus 19 more |
- TẠI SAO HÀN QUỐC PHÁT TRIỂN RỰC RỠ?
- Tân Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad muốn ‘vẽ lại’ Biển Đông
- Tỷ lệ thất nghiệp Mỹ thấp nhất gần 50 năm nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh
- Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng ( Pháp) phản biện GS. Hồ Ngọc Đại về công nghệ giáo dục
- DLV CAO CẤP TRANDAIQUANG.ORG PHÊ GS BÙI HIỀN VÀ GS HỒ NGỌC ĐẠI...LÀ "NHÀ GIÁO DỤC TĂM TỐI, DỞM"
- BÁO NHÂN DÂN: XÃ HỘI TƯ BẢN KHÔNG PHẢI THIÊN ĐƯỜNG; CÁC QUAN CAN TỘI TRỘM CƯỚP CHỚ CHẠY SANG ĐÓ...MÀ KHỔ
- Tiền Trung Quốc được lưu hành trên đất Việt: Ai hưởng lợi?
- Nguyễn Thông - Thế lực thù địch
- Trung Quốc đã muốn thì phải chiều
- Hết ODA, 'nghề công chức' mất giá
- Chính phủ kiến tạo: Gạt nhau không được thì… thôi!
- Quốc ngữ và nỗ lực 'thoát Hán' của các vua nhà Nguyễn
- VNTB - Luật Giáo dục để làm gì?
- Vì sao bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục" bị phản đối?
- Tàu chiến Anh thăm Việt Nam
- RIMPAC 2018: Trung Quốc nổi bật thành đối tượng cần triệt hạ
- VNTB - Giăng Bẫy nợ: bản sắc của thực dân Trung Quốc
- Tại sao Marx sai?
- Việt Nam mượn của Trung Quốc bao nhiêu?
- HỘI LUẬN 2012 VỚI 3 ĐẠI TÁ VỀ ĐỐI TÁC TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM
TẠI SAO HÀN QUỐC PHÁT TRIỂN RỰC RỠ? Posted: 04 Sep 2018 04:25 PM PDT
| ||||||
Tân Thủ tướng Malaysia Mahathir Mohamad muốn ‘vẽ lại’ Biển Đông Posted: 04 Sep 2018 04:18 PM PDT 10:52, 04/09/2018Tóm tắt bài viết
Quan hệ kinh tế mạnh mẽ của Malaysia với Trung Quốc từ trước đến nay đi đôi với một cách tiếp cận hòa giải trước những xung đột lãnh thổ của họ ở Biển Đông. Tuy nhiên, chính sách "ngoại giao yên tĩnh" đã bắt đầu gián đoạn khi chính phủ mới của Thủ tướng Mahathir Mohamad tái kiểm tra và định nghĩa lại các điều khoản quan hệ song phương với Bắc Kinh. 'Xét lại' các dự án Trung Quốc Kể từ cuộc bầu cử của Mahathir vào tháng 5, quốc gia Đông Nam Á đã nổi lên như người đứng đầu một "cuộc kháng chiến" mới chống lại ảnh hưởng kinh tế ngày càng tăng của Trung Quốc, cũng như những nỗ lực gây ảnh hưởng chiến lược trong khu vực của Bắc Kinh, tờ Atimes nhận xét. Khu vực đang dõi theo những động thái đi đầu của Malaysia trong việc xác định lại quan hệ kinh tế với Trung Quốc trong bối cảnh lo ngại rằng các khoản đầu tư của Bắc Kinh, đặc biệt là các dự án cơ sở hạ tầng lớn, có thể trở thành "bẫy" nợ chủ quyền. Một quan chức cao cấp của Malaysia nói với Atimes rằng chính phủ dự kiến sẽ hủy tới 40 tỷ đô la Mỹ các dự án cơ sở hạ tầng của Trung Quốc trước đây trong Sáng kiến Vành đai-Con đường (BRI) trị giá 1.000 tỷ đô la Mỹ, do lo ngại về tham nhũng, tính khả thi và nợ nần. Con số này nhiều hơn 22 tỷ USD so với các báo cáo trước đó, bao gồm 20 tỷ USD cho tuyến đường sắt cao tốc East Coast Railway Link (ECRL) bị hủy bỏ và các dự án đường ống trị giá 2 tỷ USD. Ông Mahathir hồi cuối tháng 8 đã tuyên bố cấm các nhà đầu tư nước ngoài mua nhà tại dự án của một công ty có Bắc Kinh "chống lưng" trị giá 100 tỷ đô la tại thành phố Johor, nơi phục vụ phần lớn cho người Trung Quốc ở nước ngoài. Dùng Mỹ để cân bằng Nhưng Malaysia cũng lo ngại trước âm mưu thôn tính của Trung Quốc đối với Biển Đông, một khu vực hàng hải quan trọng mang tính chiến lược, thông thương tới 5 nghìn tỷ USD thương mại hàng năm. Trung Quốc đã ngang ngược tuyên bố chủ quyền tới 90% diện tích Biển Đông thông qua bản đồ Đường 9 đoạn, hay còn gọi Đường Lưỡi bò. Một tòa án trọng tài tại The Hague tháng 7/2016 đã phán quyết rằng các tuyên bố của bản đồ là vô căn cứ. Malaysia kiểm soát một số đảo trong quần đảo Trường Sa ở Biển Đông, bao gồm Swallow Reef. Một trong những cố vấn cao cấp giấu tên của Thủ tướng Mahathir nói với tờ Asia Times ông Mahathir nhận xét Trung Quốc ngày nay bá quyền hơn so với khi còn nghèo như lúc ông lãnh đạo Malaysia 22 năm trước. Ông Mahathir đã mô tả lãnh đạo hiện tại ở Trung Quốc là "nghiêng về chủ nghĩa toàn trị" và "cơ bắp co giãn" quá mức để "tăng ảnh hưởng đến nhiều nước ở Đông Nam Á". Ông mô tả những hành động của Trung Quốc ở khu vực là" rất đáng lo ngại ". Trước đó, Mahathir coi Trung Quốc là một sự đối trọng rất cần thiết với những gì ông coi là hành vi tân hoàng của Mỹ trong khu vực. Tuy nhiên, ngày nay, vai trò đã bị đảo ngược, vị cố vấn nói, với Mỹ ngày càng cần thiết để cân bằng chống lại sự bá quyền ngày càng tăng của Trung Quốc trong khu vực, bao gồm cả ở Biển Đông. Lãnh đạo Malaysia dự kiến sẽ gặp người đồng nhiệm Mỹ, Tổng thống Trump, bên lề Đại hội đồng Liên Hợp Quốc vào tháng này. Ông sẽ cố gắng tìm kiếm hợp tác chiến lược mạnh mẽ hơn với Mỹ để giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc. Chính quyền Najib tiền nhiệm đã có quan hệ khá thân mật với Trung bao gồm cả việc mua tàu Littoral Mission Ships (LMS) năm 2016 và các tài sản hải quân tiên tiến khác. Đồng thời, Bắc Kinh đã cho Najib vay mượn để trang trải các khoản nợ liên quan đến quỹ nhà nước 1Malaysia Development Berhad (1MDB) mà ông đã tạo ra và hiện đang bị điều tra tham nhũng và rửa tiền. Đổi lại, chính phủ của Najib "ngậm bồ hòn làm ngọt" trước sự xâm nhập ngày càng tăng của Trung Quốc vào vùng biển của Malaysia và các ngư trường truyền thống, nhiều đến sự xáo trộn của cư dân trong các vùng duyên hải của quốc gia. Ông Mahathir cáo buộc tiền nhiệm Najib đã "bán nước" cho Trung Quốc. Hiện nay, đất nước đã bị nghiêng về phía Bắc Kinh đến mức chính phủ mới của ông đang nỗ lực tìm cách cân bằng bằng cách tăng cường các mối quan hệ chiến lược với phương Tây và các cường quốc bên ngoài khác. Cuộc họp trước đó của ông với Ngoại trưởng Hoa Kỳ Mike Pompeo vào ngày 3/8 đã được tổ chức trong bối cảnh mở rộng hợp tác chiến lược song phương giữa những lo ngại chung về Trung Quốc. Trong những năm gần đây, Hải quân Mỹ đã thực hiện các chuyến thăm thường xuyên đến các cảng Malaysia và hai nước được biết là đang khai thác hợp tác an ninh hàng hải sâu hơn. Là một quốc gia đa số Hồi giáo, Malaysia trước đây chỉ trích các chính sách của phương Tây ở Trung Đông, đặc biệt là các can thiệp quân sự của Mỹ ở Iraq và Afghanistan, viện trợ quân sự quy mô lớn cho Israel trong cuộc vây hãm người Palestine ở Gaza. cuộc chiến chống khủng bố, mà trong hai thập kỷ qua đã mở rộng đến khu vực Đông Nam Á. Muốn tạo liên minh với Việt Nam, Philippines Ý nghĩa chiến lược địa lý của Malaysia nằm ở vị trí của nó trên Eo biển Malacca cũng như Biển Đông, hai tuyến đường thủy quan trọng, là yếu tố quan trọng đối với việc nhập khẩu và buôn bán năng lượng của Trung Quốc với thế giới rộng lớn hơn. Trong nhiều thập kỷ, Bắc Kinh đã lo sợ khả năng Mỹ và các đồng minh của mình sử dụng các điểm nghẹt thở như Eo biển Malacca để tàn phá nền kinh tế Trung Quốc trong một kịch bản xung đột. Trung Quốc đã hy vọng ít nhất sẽ khắc phục được cái gọi là "tình trạng khó xử của Malacca" bằng cách đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng lớn dọc theo các cảng chiến lược và các khu vực ven biển của Malaysia. Giờ đây, tất cả những kế hoạch phát triển hàng tỷ đô la này đều có thể lâm nguy dưới chính phủ của Mahathir. Tuy nhiên, Mahathir đã nói rõ rằng ông không tìm cách lập một liên minh phản đối hoặc ngăn chặn chống lại Trung Quốc, và vẫn không muốn đẩy mạnh quân sự ở Biển Đông, cố vấn của ông nói. "Họ mạnh hơn và chúng tôi không thể chiến đấu chống lại họ", nhà lãnh đạo Malaysia nói với CNN hồi đầu năm nay. Dù vậy, ông Mahathir đã phản đối mạnh mẽ những hoạt động quân sự gần đây của Trung Quốc trong các tranh chấp, cảnh báo nó tăng rủi ro gây nguy hiểm cho an ninh khu vực. Ông đã nhấn mạnh tầm quan trọng của tự do hàng hải và hàng không trong khu vực, nói rằng ông cảm thấy thoải mài với "tất cả tàu, thậm chí tàu chiến, đi ngang qua". Nhưng ông chống bất kỳ tài sản hải quân nào đang "đóng quân" trong vùng biển tranh chấp. "Đó là một cảnh báo cho mọi người. Đừng tạo ra căng thẳng một cách không cần thiết", ông nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây. Malaysia đang tìm cách tăng cường hợp tác với các quốc gia Đông Nam Á có tuyên bố chủ quyền ở Biển Đông, bao gồm Philippines và Việt Nam, những nước đặc biệt bị ảnh hưởng bởi các hoạt động cải tạo và quân sự không ngừng của Trung Quốc tại Biển Đông. Theo ông Mahathir, 3 quốc gia Đông Nam Á có thể xem xét một quan hệ ngoại giao phối hợp hơn về các tranh chấp và tìm hiểu các biện pháp xây dựng lòng tin khác nhau để giảm căng thẳng trong khu vực. Không rõ ngay những biện pháp cụ thể mà chính phủ Malaysia có thể ủng hộ để bảo vệ quyền lợi của mình và ngăn chặn xung đột ở Biển Đông. Tuy nhiên, rõ ràng là chính phủ mới của Mahathir đã từ bỏ chính sách "ngoại giao yên tĩnh" trước đây của đất nước để theo đuổi một lập trường chủ động và ồn ào hơn để cân bằng với sự nổi lên của Trung Quốc. Trung Dung Có thể bạn quan tâm: | ||||||
Tỷ lệ thất nghiệp Mỹ thấp nhất gần 50 năm nhờ kinh tế tăng trưởng mạnh Posted: 04 Sep 2018 04:15 PM PDT Sau 8 năm với 19,3 triệu việc làm mới được tạo ra, nước Mỹ đang rơi vào tình trạng cạn nhân tài...Công nhân làm việc trong một nhà máy lắp ráp xe hơi ở bang Tennessee của Mỹ. Nền kinh tế Mỹ đang giữ đà tăng trưởng mạnh mẽ, nhờ đó tỷ lệ thất nghiệp nước này đang ở ngưỡng thấp nhất trong vòng 49 năm trở lại đây. Trong tháng 7, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ giảm còn 3,9%. Đây là mức thất nghiệp thấp nhất tại nền kinh tế lớn nhất thế giới kể từ năm 1969 - năm diễn ra lễ hội âm nhạc Woodstock đã đi vào lịch sử. Năm 1969, nước Mỹ có tỷ lệ thất nghiệp là 3,7%. Nhiều chuyên gia kinh tế dự báo rằng trong tháng 8, tỷ lệ thất nghiệp tại Mỹ sẽ tiếp tục giảm thêm, hướng về mốc 3,5%. Dự báo này hoàn toàn có cơ sở khi các thống kê cho thấy các doanh nghiệp sản xuất của Mỹ tiếp tục nhận thêm nhiều đơn hàng và lĩnh vực dịch vụ cũng tăng trưởng vững. Số liệu điều chỉnh công bố tuần trước cho thấy trong quý 2 vừa qua, kinh tế Mỹ tăng trưởng 4,2%, mức tăng mạnh nhất trong 4 năm, cao hơn so với mức tăng 4,1% đưa ra trong lần công bố đầu tiên. Một vấn đề lớn hiện nay mà các công ty ở Mỹ phải đối mặt là tìm đủ người có kỹ năng cần thiết để lấp đầy số vị trí cần tuyển lớn chưa từng thấy. Sau 8 năm với 19,3 triệu việc làm mới được tạo ra, nước Mỹ đang rơi vào tình trạng cạn nhân tài. Vào ngày thứ Sáu tuần này, Bộ Lao động Mỹ sẽ công bố thống kê việc làm hàng tháng. Theo dự báo, đã có thêm khoảng 200.000 việc làm mới được tạo ra ở Mỹ trong tháng 8, sau khi có 157.000 công việc mới trong tháng 7. "Chừng nào các công ty còn tìm được ứng viên đáp ứng đầy đủ nhu cầu tuyển dụng, tỷ lệ thất nghiệp sẽ còn giảm với tốc độ mạnh mẽ", chuyên gia kinh tế trưởng Stephen Stanley thuộc Amherrst Pierpont Securities nhận định. Thị trường việc làm của Mỹ hiện nay đang mạnh đến nỗi sẽ không gây lo ngại đáng kể gì nếu tốc độ tuyển dụng có tăng lên hay giảm xuống. Điều mà các nhà đầu tư và Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) quan tâm là liệu mức độ thiếu nhân lực ngày càng tăng có đẩy tiền lương tăng và khiến lạm phát leo thang. Cho đến thời điểm hiện tại, câu trả lời là không. Người lao động trong những ngành có nhu cầu tuyển dụng nhiều nhất và những người nhảy việc có thể được hưởng mức lương tăng mạnh, nhưng hầu hết người lao động chỉ được tăng lương khiêm tốn. Chẳng hạn, lương bình quân theo giờ ở Mỹ chỉ tăng 2,7% trong 12 tháng qua, thấp hơn nhiều so với mức tăng lương 3-4% thường thấy mỗi khi nền kinh tế và thị trường việc làm Mỹ mạnh như hiện nay. Giới phân tích dự báo sẽ đến lúc tăng trưởng tiền lương ở Mỹ đạt mức 3% hoặc hơn. Cho tới khi tiền lương tăng mạnh hơn, FED nhiều khả năng sẽ duy trì tốc độ tăng lãi suất từ tốn. Lạm phát ở Mỹ cũng đang tăng, nhưng chưa đến ngưỡng nguy hiểm. Chưa kể, các chính sách khó lường của Tổng thống Donald Trump, bao gồm cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, cũng cho FED một lý do nữa để hành động thận trọng. XEM THÊM
| ||||||
Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng ( Pháp) phản biện GS. Hồ Ngọc Đại về công nghệ giáo dục Posted: 04 Sep 2018 04:10 PM PDT GS.NGUYỄN TIẾN DŨNG(GDVN) - Giáo sư Châu được gia đình cho ra học trường khác sau một thời gian thấy học ở trường thực nghiệm không đạt kết quả tốt về môn toán... Công nghệ giáo dục của GS.Hồ Ngọc Đại và sự im lặng khó hiểu của giới chuyên mônLàm thế nào để sách của GS. Hồ Ngọc Đại vào được nhà trường? LTS: Sau bài viết "Công nghệ giáo dục của GS.Hồ Ngọc Đại và sự im lặng khó hiểu của giới chuyên môn", Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam nhận được bài phản biện Giáo sư Hồ Ngọc Đại về giáo dục từ Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Viện trưởng Viện toán lý thuyết - Viện Toán học Toulouse - Cộng hòa Pháp, Giáo sư Đại Học Toulouse. Được biết Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng từng là học sinh Việt Nam trẻ nhất đạt Huy chương vàng Toán Quốc tế năm ông 14 tuổi rưỡi. Ông được phong Giáo sư Toán tại Đại học Toulouse năm 32 tuổi. Năm 2015, Chính phủ Pháp phong ông làm Giáo sư ngoại hạng. Loạt bài phản biện Giáo sư Hồ Ngọc Đại về giáo dục đã được Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng viết từ năm 2012, bao gồm 6 phần. Nay để rộng đường dư luận và góp thêm tiếng nói bàn bạc vấn đề dư luận các nhà giáo, phụ huynh và học sinh Việt Nam đang quan tâm liên quan đến Công nghệ giáo dục và sách giáo khoa Công nghệ giáo dục của Giáo sư Hồ Ngọc Đại, Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng gửi Báo Điện tử Giáo dục Việt Nam đăng 6 nội dung phản biện của ông. Tòa soạn trân trọng gửi đến quý bạn đọc lần lượt 6 vấn đề Giáo sư Nguyễn Tiến Dũng phản biện Giáo sư Hồ Ngọc Đại. Văn phong và nội dung bài viết phản ánh nhận thức, quan điểm của tác giả, tiêu đề bài viết do Tòa soạn đặt. GS.Hồ Ngọc Đại là một người cả đời nghiên cứu về giáo dục, nên ắt hẳn phải thâm hiểu hơn tôi nhiều về triết lý giáo dục. Tuy nhiên, có một số tư tưởng của ông liên quan đến những vấn đề cơ bản của giáo dục làm tôi rất băn khoăn, nên muốn đem ra đây bàn cãi. Phần 1: Từ trừu tượng đến cụ thể hay là từ cụ thể đến trừu tượng? Một trong các phương châm của GS.Hồ Ngọc Đại "từ trừu tượng đến cụ thể". (Phương châm này thể hiện khá rõ trong chương trình lớp 1 "công nghệ giáo dục" về toán và tiếng Việt của Hồ Ngọc Đại, mà tôi sẽ bàn phía dưới). Ví dụ, trong bài "Giải pháp phát triển giáo dục: từ góc nhìn nghiệp vụ sư phạm" [1] có đoạn: "Một. Nguyên tắc phát triển. Môn học thiết kế theo lôgích nội tại của Hệ thống khái niệm khoa học, tôn trọng sự phát triển tự nhiên của Đối tượng, không có sự cưỡng bức từ ngoài. Sự phát triển này sẽ là tối ưu, nếu quá trình đi từ trừu tượng đến cụ thể, từ chung đến riêng, từ đơn giản đến phức tạp…" "Từ đơn giản đến phức tạp" thì đúng quá rồi, vì phải có các yếu tố đơn giản mới hợp lại thành phức tạp được. Nhưng tại sao lại "từ trừu tượng đến cụ thể, từ chung đến riêng"?!
Theo tôi thì ngược lại mới đúng, tức là phải đi từ riêng đến chung, đi từ cụ thể đến trừu tượng, mới là quá trình học tự nhiên. Nhiều khi "khái niệm trừu tượng" chỉ là cái vỏ, có hay không không quan trọng bằng cái ruột bên trong ra sao. Khi có "ruột" rồi mới cần "vỏ" để "đóng gói" lại cho "ngăn nắp" chứ toàn vỏ không mà rỗng ruột thì chẳng để làm gì. Khi tôi nói chuyện với các SV ngành toán, có nhận thấy rằng nhiều bạn thông minh nhưng hổng kiến thức cơ bản, chính vì học một cách quá trừu tượng mà thiếu ví dụ cụ thể. Ví dụ như học giải tích hàm với các không gian rất trừu tượng, nhưng không viết được công thức Parceval cho chuỗi Fourier. Không phải vô cớ mà Albert Einstein từng nói: Dạy học bằng ví dụ không phải là "một cách dạy học" mà là "cách duy nhất để dạy học". Chắc GS.Hồ Ngọc Đại sẽ đồng ý rằng các kiến thức về thần kinh học (neuroscience) giúp ích rất lớn cho các ngành khác như tâm lý học và giáo dục học. Theo hiểu biết hạn chế của tôi, thì hệ thần kinh gồm có các tế bào thần kinh được nối với nhau bởi các "dây nối" chằng chịt thành một mạng (hình dung tương tự như mạng internet). Thông tin chứa đựng trong một cụm tế bào thần kinh càng dễ được kích hoạt nếu cụm tế bào đó càng có nhiều dây nối đến các tế bào khác. Khi con người học một khái niệm hay bất cứ một cái gì đó mới, thì hệ thần kinh ghi nhớ lại khái niệm đó vào trong một cụm tế bào thần kinh, và tạo cầu nối từ cụm tế bào đó đến các tế bào khác. Để tạo được các cầu nối tức là phải nhận ra được các sự liên quan. Một khái niệm trừu tượng khi vào não phải có được những cái gì đó đã có trong não để "bám víu" vào qua các cầu nối, thì mới giữ lại được và dùng được chứ không thì dễ bị quên đi hoặc tốn chỗ vô ích. Những ví dụ cụ thể dễ hiểu và những khái niệm đã quen thuộc chính là những thứ để khái niệm trừu tượng mới bám vào. Có cần dạy "toán cao cấp" cho học sinh cấp 1? GS.Hồ Ngọc Đại tự hào về việc dạy "toán hiện đại, cao cấp" cho học sinh cấp 1 ở trường thực nghiệm. Ví dụ, bài báo "Nhiều phụ huynh chẳng hiểu gì về trường thực nghiệm" [2] có đoạn: "Trẻ con lớp 1 ở trường Thực nghiệm được học tiếng Việt, toán hiện đại, cao cấp. Hiện đại không có nghĩa là nửa vời mà là tư duy hiện đại, tư duy theo cách làm việc và cũng cần xác định tư duy cái gì, làm việc cái gì là tốt và xứng đáng nhất với trẻ con." Các từ "hiện đại, cao cấp" ở đây có thể gây cho một số người hiểu nhầm là trẻ em cấp 1 có thể học được toán cao cấp thật. (Có là thần đồng toán học thời nay như Terrence Tao cũng không giỏi đến mức vậy). Nói một cách chính xác hơn, thì "toán hiện đại, cao cấp" của GS.Hồ Ngọc Đại chủ yếu là đưa một ngôn ngữ toán học trừu tượng vào cho học sinh cấp 1 học, chứ thực ra không có kiến thức "cao cấp" ở đó. Nếu chúng ta bỏ một cái xe đạp 3 bánh cho trẻ con vào 1 cái vỏ thùng xe máy, thì không vì thế mà xe đạp 3 bánh biến thành xe máy. Một "kiện hàng" mà "vỏ" quá nặng thì "ruột" bị nhẹ đi. Tôi e là khi học sinh lớp 1 mất quá nhiều thời gian vào việc "tiêu hóa" ngôn ngữ toán học hình thức, thì thời gian dành cho việc học những khái niệm cơ bản nhất của toán học lại bị giảm đi, dẫn đến hổng kiến thức cơ bản. Và kết quả môn toán của các học sinh học chương trình thực nghiệm của GS.Hồ Ngọc Đại cũng không lấy gì làm khả quan lắm, như bài báo "Trường thực nghiệm: hóa ra là …" [3] phản ảnh. GS Ngô Bảo Châu hay được lấy làm ví dụ về sự thành công của trường thực nghiệm, nhưng có một chi tiết mà báo chí bỏ qua. Đó là Giáo sư Châu được gia đình cho ra học trường khác sau một thời gian thấy học ở trường thực nghiệm không đạt kết quả tốt về môn toán. Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, luôn cần làm 4 phép tính cộng trừ nhân chia, chứ mấy khi sử dụng các thuật ngữ trừu tượng như "phần bù của tập hợp A trong tập hợp B". Trẻ em không dùng ngôn ngữ trừu tượng như là "phần bù của tập hợp A trong tập hợp B" thì không có nghĩa là không biết làm phép toán đó. Mà chỉ có nghĩa là nó suy luận một cách cụ thể hơn, trực tiếp hơn, không cần phải qua cái "vỏ" trừu tượng hình thức hóa đó. Ngôn ngữ trừu tượng hình thức trong toán học là cần thiết ở những mức độ nào đó, nhưng lạm dụng nó thì chỉ làm cho mọi thức trở nên rối rắm phức tạp mà không đi vào bản chất vấn đề. Ông V.I. Arnold có viết mô tả những người bị "mắc bệnh hình thức" trong toán học đại loại như sau: Thay vì nói "Vova rửa tay" thì người ta nói "có một tập hợp các trạng thái tay của Vova gồm có các phần tử là …, có một thời điểm T mà trước thời điểm đó tay Vova ở trạng thái bẩn, sau thời điểm đó trở thành trạng thái sạch, v.v." (Nghe nói ông Kolmogorov thời thế kỷ 20 cũng mắc sai lầm đưa lý thuyết hình thức về tập hợp vào dạy đại trà cho trẻ nhỏ ở Nga nhưng rồi phải bỏ sau khi bị la ó phản đối?) Tất nhiên, khi xã hội thay đổi, hiện đại lên, thì việc dạy các môn học cũng cần hiện đại lên theo. Nhưng "hiện đại" và "hình thức" là hai thứ hoàn toàn khác biệt. Trong thế giới hiện đại, học sinh có thể được trang bị một cái "cặp điện tử" chỉ nặng có 1kg mà vừa viết, vừa vẽ, vừa đọc, v.v. được trên đó thay vì một cái cặp với đống sách vở giấy bút nặng chình chịch. Nhưng khi học chúng vẫn cần phải đi lên từ những cái cụ thể, quen thuộc rồi mới hiểu được các thứ hình thức trừu tượng. Tài liệu tham khảo: GS.Nguyễn Tiến Dũng | ||||||
DLV CAO CẤP TRANDAIQUANG.ORG PHÊ GS BÙI HIỀN VÀ GS HỒ NGỌC ĐẠI...LÀ "NHÀ GIÁO DỤC TĂM TỐI, DỞM" Posted: 04 Sep 2018 04:39 PM PDT (Giáo dục) - Cổ nhân có câu "lương sư hưng quốc". Nhưng bất hạnh thay là nước Việt Nam hôm nay, "lương sư" đang ngày ngày càng hiếm; trong khi những nhà sư phạm "nửa mùa", thích lôi người người học ra làm chuột bạch thí nghiệm với các sáng kiến lạ đời, thì lại nhiều nhan nhản. Giữa bầu không khí phấn khởi của cả nước vì một số thành tựu kinh tế xã hội nổi bật trong thời gian qua, thì những vết sạn của cả nền giáo dục lại khiến công chúng không thể không bức xúc. Gần đây nhất, đó chính là những tranh cãi xoay quanh "công nghệ giáo dục" trong việc giảng dạy tiếng Việt ở bậc tiểu học của ông Giáo sư Hồ Ngọc Đại (con rể cố Tổng bí thư Lê Duẩn). Trên thực tế, ông Đại chỉ là dân ngoại đạo về ngữ văn và ngôn ngữ học, hoàn toàn không có thành tựu nào nổi bật (ở đây chỉ các công trình nghiên cứu khoa học nghiêm túc, được công nhận là có giá trị học thuật lẫn khả năng ứng dụng trong thực tiễn). Thời chiến tranh khốc liệt, ông được nhà nước cử sang Liên Xô học ngành tâm lý học, rồi trở về nước làm luận án tiến sĩ, song lại liên quan đến chủ đề tâm lý trong việc giảng dạy toán học ở bậc phổ thông. Từng nhận là có đọc một cuốn sách ghi chép những kiến thức tổng hợp về lịch sử hình thành và phát triển của tiếng Việt suốt hơn 300 năm, ông đã lấy đó để làm động lực cho những sáng kiến cải cách ngôn ngữ về sau này. Thử hỏi như vậy, ông Đại lấy tư cách gì hay dựa trên cơ sở học thuật nền tảng nào để đòi cải biến tiếng Việt? Bằng công nghệ giáo dục "độc đáo" của mình, ông Đại đề nghị giản lược hóa cách phát âm, chỉ sử dụng âm vị "cờ" cho cả 3 mặt chữ C,Q,K. Cách làm này, theo nhiều thầy cô giáo có kinh nghiệm đứng lớp, rất dễ gây nhầm lẫn (ngay với người lớn, đừng nói trẻ nhỏ), khiến các bậc phụ huynh không khỏi lo lắng. Nhiều học giả, như nhà nghiên cứu độc lập Cao Tự Thanh, đã chỉ ra âm vị của C,K có thể giống nhau, nhưng nếu áp đặt cho Q thì chắc chắn là sai và không thể thay thế một cách tùy tiện như trên được. Và mặc dù không thể phản biện lại, nhưng ông Đại vẫn luôn khăng khăng, rằng chỉ có phương pháp của mình mới là đúng và sẽ hữu ích đối với hoạt động dạy học hiện đại, giúp cả thầy cô giáo lẫn học sinh thuân tiện hơn trong việc đánh vần. Chưa hết, sáng kiến của ông Đại còn được một người bạn lâu năm của ông là PGS. TS Bùi Hiền – từng gây hoang mang dư luận bởi đề án đòi thay đổi lối viết tiếng Việt (mà ngay đến chính ông Bùi Hiền cũng còn chưa quen) – cổ vũ hết mình. Là người Việt Nam, chúng ta cần hiểu rõ nguồn gốc và trân trọng ngôn ngữ của mình, bao gồm tiếng nói và chữ viết. Nếu chữ Quốc ngữ – thành quả vĩ đại, kết tinh ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa như mang thanh âm của người Việt, nghĩa Hán tự, nhưng được biểu thị bằng các ký tự La tinh – mới có lịch sử khoảng 400 năm nay và chỉ thực sự trở nên phổ biến, thành chữ viết chính thức của cả dân tộc trong độ 100 năm trở lại; thì các thanh điệu trong tiếng Việt (cụ thể là 6 dấu thanh) đã phải mất gần 2000 năm để hình thành và phát triển đến độ ổn định như ngày nay. Ấy vậy mà hai ông giáo sư tiến sỹ đương đại, vốn chẳng được đào tạo bài bản về ngôn ngữ học như các giáo sĩ, thừa sai truyền đạo phương Tây khia xưa (có công phát minh và hoàn thiện lối viết Quốc ngữ khi nghe tiếng nói của người An Nam rồi ghi lại bằng các ký tự La tin, ban đầu chỉ là để phục vụ mục đích rao giảng Tin mừng), đã đòi cải biến cả cách phát âm lẫn lối viết của tiếng dân tộc, chỉ vì cái tôi và sự ngạo mạn của bản thân (hoặc giả cũng có thể nắm được một chút lợi ích nào đó). Nhưng nguy hiểm hơn, thay vì lấy ý kiến rộng rãi để bổ túc và hoàn thiện, nhất là cần chứng minh tính đúng đắn và khả năng ứng dụng đại trà của phương pháp mới (nếu đúng là nó có giá trị) dựa trên tinh thần bao dung của khoa học, thì một người được gọi là trí thức, đạo mạo, đức cao vọng trọng như ông Đại lại tìm cách "lách luật", đi đường "tiểu ngạch" cùng một số vị quan chức, lãnh đạo giáo dục (như nguyên Bộ trưởng Phạm Vũ Luận và Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển) thực hiện chiến lược đánh "du kích", ban đầu cho in, thí điểm và chỉ đạo địa phương mua sách (thông qua công ty xuất bản độc quyền với giá bán cao gấp 2 – 3 lần bình thường), ban đầu từ Lào Cai – một tỉnh miền núi, để rồi sau đó nhân rộng ra. Một số nguồn tin cho biết, nhiều phụ huynh đã phải chạy đôn chạy đáo để tìm mua những cuốn sách giáo khoa tiếng Việt có chất lượng rất thấp (do ông Đại làm chủ biên), và ước tính cả xã hội đã tiêu tốn tới 400 – 500 tỷ đồng cho mô hình thí điểm này. Cuối cùng, theo GSTS Trần Đình Sử, mọi nghiên cứu khoa học cần thiết phải vì mục đích nhân văn và mang lại lợi ích kinh tế xã hội. Đất nước này đang rất thiếu những sáng tạo và ý tưởng đột phá (nhất là về khoa học công nghệ) để đẩy mạnh năng suất lao động, nhằm thu hẹp khoảng cách với các quốc gia phát triển, chứ chúng ta không cần những đề xuất "tào lao", gây lãng phí tốn kém, thậm chí chỉ nhằm mục đích bòn rút ngân sách công. Những đề xuất và việc làm, theo kiểu của GS. Hồ Ngọc Đại hay PGS.TS Bùi Hiền, vì rất thiếu nền tảng căn bản, bên cạnh trình độ nhận thức lẫn hiểu biết về kinh tế – văn hóa – xã hội quá thấp, tất yếu sẽ gây nên hậu quả tai hại cho đất nước, thậm chí còn mang tính "hủy diệt văn hóa" … Thế mới biết, sở hữu nhiều bằng cấp, học hàm, học vị thì chưa hẳn đã là trí thức, … và ngay trong giới "trí thức", cũng có không ít trường hợp điển hình của việc "giả" hay bằng "dỏm". Vì vậy, dư luận không nên ủng hộ hay thậm chí là tiếp tay cho những suy nghĩ và hành vi "hại dân hại nước" như vậy. (Theo Bút Danh) | ||||||
Posted: 04 Sep 2018 04:00 PM PDT | ||||||
Tiền Trung Quốc được lưu hành trên đất Việt: Ai hưởng lợi? Posted: 04 Sep 2018 03:49 PM PDT Đăng bởi: Tiểu Nhi on Thứ Ba, 4 tháng 9, 2018 | 4.9.18Hôm 28 Tháng Tám năm 2018, thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước CSVN ban hành thông tư số 19/2018, có nội dung hướng dẫn việc "Quản lý ngoại hối" trong hoạt động thương mại tại biên giới giữa Việt Nam – Trung Quốc, sẽ có hiệu lực từ ngày 12 Tháng Mười, 2018 tới đây.
Theo đó, "các thương nhân, cư dân có hoạt động thương mại qua biên giới giữa hai nước, sẽ được sử dụng đồng tiền thanh toán gồm đồng bạc Việt Nam hoặc 'Nhân Dân Tệ' và ngoại tệ tự do chuyển đổi…" Tại sao nhà cầm quyền Việt Nam lại ban hành thông tư này, chỉ đơn thuần là về tài chánh tiền tệ hay vì mục đích chính trị? Việt Nam hay Trung Quốc, ai có lợi trong việc này? Theo thông tin do Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (International Monetary Fund) mới phổ biến, Trung Quốc đã trở thành thị trường xuất cảng lớn nhất của Việt Nam vào 2017, thay thế vị trí mà Mỹ chiếm giữ trong suốt 15 năm qua. Hàng hóa của Việt Nam xuất cảng sang Trung Quốc gồm than đá, than cốc, than bánh, trái cây, rau, dầu hỏa và các sản phẩm chế tạo từ dầu hỏa, nguyên liệu dệt sợi và vải, dụng cụ truyền thông và âm thanh, máy điện và vật gia dụng trong nhà, quặng kim loại và kim loại phế thải, bàn và gỗ, máy móc văn phòng và điều hành số liệu và giầy dép,… Trả lời phỏng vấn của Nhật báo Người Việt, kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa nói rằng "Về dài, kinh tế Việt Nam càng lệ thuộc hơn vào Trung Quốc." Ông Nguyễn Xuân Nghĩa trình bày bối cảnh là các nguyên nhân, rồi mới nói về hậu quả. Với ông, đây chỉ là một quyết định của nhà cầm quyền Hà Nội nhằm bình thường hóa một điều bất thường – và bất lợi cho Việt Nam, ông nhấn mạnh. Kinh tế gia Nguyễn-Xuân Nghĩa nhận định. "Thuần về kinh doanh, nhiều người Việt giao dịch với Trung Quốc tại biên giới đã dùng đồng Nguyên của Trung Quốc trong trao đổi vì doanh lợi và tiện lợi, chứ không nghĩ xa hơn. Nhưng hiện tượng cục bộ đó thu hẹp và không có ý nghĩa chính trị cho tới khi nhà nước Việt Nam ban thông tư chính thức hóa việc lưu hành tiền Trung Quốc trên đất Việt." Nói về bối cảnh sâu xa vì là nguyên do của tình trạng ông Nghĩa gọi là bất thường, ông nêu ra nhận định thuộc lãnh vực "vĩ mô" hay chánh sách quốc gia. "Sách lược công nghiệp hóa Việt Nam của lãnh đạo Hà Nội có hại cho Việt Nam nhưng có lợi cho Trung Quốc. Lý do là qua chiến lược đó, Việt Nam tiếp nhận trang bị lỗi thời đã bị Trung Quốc đào thải vì hủy hoại môi sinh, Việt Nam lại còn nhận đầu tư của Trung Quốc vào các khu vực địa dư chiến lược cho an ninh quốc gia, và các dự án xây dựng hay năng lượng thiếu phẩm chất mà thừa tai họa." Hàng hóa từ Trung Quốc chờ xuất cảng qua cửa khẩu Móng Cái của Việt Nam. (Hình: Getty Images) Theo ông Nghĩa, giới lãnh đạo Hà Nội không thể không biết tình trạng bất cập đó từ nhiều năm qua để sửa sai nhưng vẫn tiếp tục vì mối quan hệ giữa đảng Cộng Sản Việt Nam và đảng Cộng Sản Trung Quốc. Nay Bắc Kinh thúc giục Hà Nội hợp thức hóa việc sử dụng đồng Nguyên tại Việt Nam vì một số tỉnh tiếp giáp Việt Nam cần hoàn tất việc xây dựng bảy "khu vực mậu biên" – là mậu dịch tại biên giới. Lý do nằm trong trận thương chiến vừa bùng nổ giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc. "Bắc Kinh muốn tuồn hàng cho Việt Nam dán nhãn 'Made in Vietnam' để bán ra ngoài khi Hoa Kỳ và nhiều quốc gia thấy ra chính sách thương mại bất chính của Trung Quốc. Việc sử dụng tiền Tàu trên đất Việt sẽ giúp cho mục tiêu gian trá đó." Được hỏi về hậu quả của quyết định này, ông Nghĩa nêu ra nhiều nhận xét. "Thứ nhất, Việt Nam bị đẩy sâu hơn vào tình trạng lệ thuộc Trung Quốc đã quá nặng. Thứ hai, Bắc Kinh thành công khi tạo ra hình ảnh Việt Nam là một đồng chí và bạn hàng số một trong Hiệp Hội ASEAN của 10 quốc gia Đông Nam Á và cho thấy đồng Nguyên của họ trở thành một "ngoại tệ phổ biến" trong ngoặc kép. Thứ ba, Trung Quốc có thể lũng đoạn hệ thống hối đoái hay ngoại hối của Việt Nam với khí cụ mới là đồng Nguyên do Bắc Kinh chứ không do thị trường tự do quyết định về trị giá. Thứ tư, thế giới bên ngoài không thể không biết chuyện đó vì báo chí quốc tế đã nói từ lâu, cho nên Việt Nam dễ bị các nước trừng phạt về mậu dịch khi bán hàng Tầu dưới nhãn Việt." Khi được hỏi đánh giá thế nào về phản ứng của người dân Việt Nam về việc này, ông Nguyễn Xuân Nghĩa tỏ vẻ bi quan. Ông không nghĩ người dân Việt Nam sẽ phản ứng dữ dội, bởi nhiều người không biết chuyện đồng nhân dân tệ được lưu hành ở Việt Nam. Nếu biết, cũng không nhiều người dân dự đoán được việc này sẽ ảnh hưởng gì đến nền kinh tế Việt Nam, trừ khi báo chí phân tích rõ ràng sự lợi hại. Kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa kết luận rằng Hà Nội đã cân nhắc từ lâu và quyết định trôi sâu hơn vào vòng lệ thuộc Trung Quốc vì chính trị mới thực sự chi phối chính sách kinh tế. Trúc Linh | ||||||
Nguyễn Thông - Thế lực thù địch Posted: 04 Sep 2018 03:47 PM PDT Đăng bởi: Tiểu Nhi on Thứ Tư, 5 tháng 9, 2018 | 5.9.18Hôm trước coi video, thấy cảnh đoàn xe chở và hộ tống ông thủ tướng đi Hà Nam Phủ Lý chi đó dài dằng dặc, rầm rập hung dữ, tiền hô hậu ủng, còi xe công an hú kinh người, xe lao vun vút… không khác gì chạy trốn hoặc đi đánh giặc.
Người ta bảo, với các quan lớn thì phải thực hiện "dịch vụ bảo vệ" như thế để đảm bảo an ninh an toàn trước các thế lực thù địch. Về với dân, tinh những chị Dậu anh Pha, cái Tý cái Tỉu thằng Dần… nhưng luôn lo sợ họ là thế lực thù địch, hoặc bị thế lực thù địch lợi dụng, nên cứ phải ngồi tịt trong cái hòm kín phóng vun vút. Còn có ông khác ở xứ ta xài cả xe chống đạn giá vài chục tỉ, rất kinh. Kiểu dọa dân như thế, nếu áp dụng với quốc khách, như Obama, Tập Cận Bình, Putin… thì cũng hợp lẽ, bởi nếu xảy ra chuyện gì đó không hay sẽ gây khó khăn trong quan hệ quốc tế. Đằng này ngay trong nhà mình, trên đất mình, với dân mình, cứ coi như quân thù quân hằn, đề cao tinh thần cảnh giác. Nếu ai bảo rằng đã ở cương vị như thế thì phải thế, vậy tôi xin hỏi, trả lời làm sao việc ngài tổng thống Uruguay Jose Pepe Mujica, người đã đưa đất nước phát triển thêm gần 20% trong 2 nhiệm kỳ của ông, khi làm tổng thống chỉ tự hằng ngày lái xe từ nhà cấp 4, cả nhà lẫn xe đều không có lính bảo vệ, tự tới dinh, hết ngày làm việc lại tự lái xe về, ngày nghỉ thì hai vợ chồng lao động, làm vườn, nấu ăn, không có lấy một người phục vụ. Chính nhà độc tài Fidel Castro của Cuba cũng còn phải khen ngợi ông này, gọi ông là vị tổng thống bình dân, được dân chúng yêu mến nhất trên thế giới. Thế lực thù địch, nguy hiểm hay không nguy hiểm, là do mình. Chính mình tạo ra. Khi đã không chính danh, làm điều xấu thì luôn "thần hồn nát thần tính", nhìn đâu cũng ra kẻ thù. Miệng thì cười nói nhưng lòng thì run sợ. Đã không được lòng dân, không có dân che chở, yêu thương thì dù có cả sư đoàn mãnh hổ bảo vệ, xe phóng vun vút tốc độ ánh sáng, ngồi xe tăng bọc thép dày cả mét… thì cũng như người đã chết, cần gì phải ai dọa ai giết. Nguyễn Thông (FB Nguyễn Thông) | ||||||
Trung Quốc đã muốn thì phải chiều Posted: 04 Sep 2018 03:32 PM PDT Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Từ 12 tháng 10 năm 2018, cho phép sử dụng Nhân dân tệ (Yuan) tại bảy tỉnh tiếp giáp với biên giới Trung Quốc (Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hà Giang, Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Điện Biên) là bằng chứng mới nhất, rõ nhất về việc Trung Quốc đã muốn thì phải chiều, bất kể chuyện chiều theo ý muốn của Trung Quốc nguy hại như thế nào cho vận mệnh quốc gia, tương lai dân tộc, độc lập - tự chủ về kinh tế - xã hội và xa hơn nữa là chính trị… Để cảm nhận một cách rõ ràng "Trung Quốc đã muốn thì phải chiều" xin cùng xem lại sự kiện, ý kiến về việc có nên cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam cách nay ba năm rưỡi… *** Tháng 1 năm 2015, ngay sau khi Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của Trung Quốc (ICBC) đề nghị Việt Nam cho phép sử dụng Yuan (Nhân dân tệ của Trung Quốc) trong các giao dịch tại Việt Nam, thông qua báo giới, mạng xã hội, doanh giới, các chuyên gia kinh tế trong và ngoài Việt Nam đã đồng loạt phân tích - cảnh báo hàng loạt hậu quả theo sau việc chấp nhận đề nghị này. Lúc ấy, một trong những người khuyến cáo chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam không nên gật đầu với đề nghị cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam là ông Cao Sỹ Kiêm – cựu Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ông Kiêm nhấn mạnh: Cho dù mối quan hệ giao lưu hàng hóa giữa Việt Nam và Trung Quốc rất rộng nhưng vì sức cạnh tranh và khả năng quản lý thị trường của Việt Nam còn kém, việc từ chối hay cho phép sử dụng Yuan ở Việt Nam sẽ dẫn tới hệ quả là kinh tế Việt Nam lệ thuộc vào Trung Quốc ít hay nhiều. Khi được đề nghị bình luận về nhận định của ông Lê Đăng Doanh (một chuyên gia kinh tế - người cho rằng đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC, vi phạm chủ quyền của Việt Nam), ông Kiêm cho rằng, chủ quyền của Việt Nam có bị xâm hại hay không là do Việt Nam. Nếu sức cạnh tranh đã đủ lớn, hợp thức hóa việc sử dụng Yuan bằng các quy định mà có thể kiểm soát chặt chẽ thì sẽ bảo vệ được chủ quyền. Ngược lại, không giữ được độc lập về kinh tế, độc lập trong việc quản lý chính sách thì chủ quyền sẽ bị xâm hại (1). Không chỉ có ông Doanh, ông Kiêm, ông Nguyễn Minh Phong – một chuyên gia kinh tế làm việc tại Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Hà Nội, cũng tin rằng, chấp nhận sử dụng Yuan để thanh toán các giao dịch thương mại tại Việt Nam sẽ đẩy kinh tế Việt Nam đến chỗ đối mặt với hai nguy cơ: Gia tăng rủi ro đối với doanh nghiệp Việt Nam vì Yuan chưa phải là ngoại tệ được tự do chuyển đổi trên thị trường quốc tế. Mặt khác, nhập siêu từ Trung Quốc rất lớn, ở vị thế yếu hơn về thương mại, doanh giới Việt Nam sẽ phải vay Yuan từ Trung Quốc, Việt Nam sẽ không chỉ lệ thuộc Trung Quốc về hàng hóa mà còn lệ thuộc cả về tài chính. Ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Kinh tế (VEPR), khẳng định nguyên tắc, thanh toán cho các giao dịch trên lãnh thổ của quốc gia nào phải sử dụng tiền tệ của quốc gia đó. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam từng làm đủ cách để loại bỏ tình trạng vàng hóa, đô la hóa, tại sao lại có thể chấp nhận cho sử dụng Yuan trên lãnh thổ Việt Nam (?) (2). Tương tự, bà Phạm Chi Lan – một chuyên gia kinh tế khác – ví von, nội tệ cũng như quốc kỳ, cho phép sử dụng Yuan tại Việt Nam cũng như cho phép treo cờ Trung Quốc trên lãnh thổ Việt Nam (3). Bên ngoài Việt Nam, sau khi phân tích lợi – hại nếu chấp nhận đề nghị cho phép dùng Yuan thanh toán trực tiếp trên lãnh thổ Việt Nam mà phần bất lợi Việt Nam gánh hết, ông Vũ Quang Việt – một chuyên gia kinh tế từng là Vụ trưởng Vụ Tài khoản Quốc gia thuộc Cục Thống kê của Liên Hiệp Quốc – nhận định, không quốc gia nào muốn có nền kinh tế độc lập, lại xóa bỏ khả năng điều hành chính sách tiền tệ của mình bằng cách cho phép sử dụng rộng rãi vàng hay ngoại tệ trong thanh toán nội địa, dù nó là đồng Yuan hay Mỹ kim. Sử dụng ngoại tệ một cách rộng rãi chứng tỏ rằng người dân không còn tin nội tệ và muốn giữ nó, đưa đến việc nội tệ mất giá. Ông Việt đưa ra hàng loạt dẫn chứng từ thực tế (chẳng hạn cho phép mỗi người dân ở biên giới, mỗi ngày được mang lượng hàng hóa Trung Quốc trị giá hai triệu đồng vào Việt Nam), cáo buộc chính quyền Việt Nam đang tự cho phép mình mất chủ quyền về tiền tệ ở vùng biên giới, biến các tỉnh này thành vùng đầu tầu giúp Trung Quốc tấn công, xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Ông Việt nêu thắc mắc, phải chăng những chính sách kiểu đó là lý do khiến Việt Nam không kiểm soát được hoạt động nhập cảng từ Trung Quốc cũng như chất lượng hàng nhập cảng từ Trung Quốc? Tiếp tục mở rộng theo đề nghị của phía Trung Quốc là mở rộng khả năng Yuan đuổi đồng nội tệ ra khỏi thị trường Việt Nam và sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc điều hành nền kinh tế Việt Nam và chính trị ở Việt Nam. Ông Việt khuyên chính quyền Việt Nam nên xem lại chính sách tiền tệ và thương mại với Trung Quốc ở khu vực biên giới, thực hiện mậu dịch qua ngân hàng bằng đồng tiền chuyển đổi được trên thị trường thế giới, còn nếu không thì dựa trên việc thành lập qua ngân hàng một quĩ chuyển đổi giữa đồng Việt Nam và Yuan, bên Việt Nam có thể mua hàng bằng đồng Việt và bên Trung Quốc có thể mua hàng bằng Yuan, phần còn lại được giải quyết bằng đồng chuyển đổi, đó mới là hợp tác nhằm có biện pháp phù hợp cân bằng thương mại giữa hai quốc gia (4). Ngoài chuyện giới thiệu ý kiến của các chuyên gia kinh tế, hồi tháng 1 năm 2015, báo giới Việt Nam còn dẫn ý kiến của các doanh nghiệp Việt Nam đang có quan hệ thương mại với doanh nghiệp Trung Quốc để chứng minh, chính họ cũng không mặn mà với đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC. Ông Nguyễn Lâm Viên, Tổng Giám đốc VINAMIT – một doanh nghiệp có nhiều đối tác thương mại ở Trung Quốc, cho biết, hầu hết hợp đồng giữa hai bên đều chọn ngoại tệ thứ ba là Mỹ kim làm phương tiện thanh toán. Nếu chuyển sang thanh toán bằng Yuan thì thiệt thòi của doanh nghiệp Việt Nam sẽ rất lớn vì phải trả thêm 0,5% phí chuyển đổi từ Mỹ kim sang Yuan. Ông Viên lưu ý, năm 2014, nhập siêu từ Trung Quốc khoảng 29 tỉ Mỹ kim, cứ tính 0.5% khoản này sẽ thấy. Đó cũng là điều mà Giám đốc một ngân hàng thương mại chuyên mở L/C cho các doanh nghiệp Việt Nam có giao thương với Trung Quốc bảo với tờ Thanh Niên rằng, bởi các giao dịch với Trung Quốc thường quy đổi thành Mỹ kim, giao dịch bằng Yuan chiếm tỉ lệ rất nhỏ so với các đồng tiền khác nên chắc chắn không doanh nghiệp Việt Nam nào mặn mà với ý tưởng dùng Yuan thanh toán thương mại… Tháng 1 năm 2015, ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu xây dựng Việt Nam, gọi đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và Ngân hàng Công Thương của Trung Quốc (ICBC) là một đề nghị kỳ quặc, phi lý, thiếu khả thi vì Yuan là loại tiền tệ mà Trung Quốc tìm mọi cách vẫn chưa thể quốc tế hóa và tất nhiên không thể chấp nhận vì gật đầu là chấp nhận bị khống chế, lệ thuộc (6)… *** Tháng 1 năm 2015, ông Phạm Sỹ Thành - Giám đốc Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc (VCES) thuộc VEPR từng tỏ ra rất lạc quan trước đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC bởi đó chỉ là một đề nghị và đâu phải đề nghị nào cũng "hợp lý", "có hiểu biết". Chưa kể về mặt kỹ thuật, Việt Nam và Trung Quốc chưa có Hiệp định Hoán đổi tiền tệ (Swap Agreement), giao dịch trực tiếp của tư nhân trong thương mại tại biên giới là phạm pháp, chắc chắn Bộ Công Thương sẽ lắc đầu, Ngân hàng Nhà nước không thể đồng ý. Cứ theo nhận định của ông Thành thì đề nghị đó không thể chấp nhận vì gật đầu sẽ giúp "hệ thống ngân hàng Trung Quốc bùng nổ tại Việt Nam". Nếu tỷ trọng vốn của Trung Quốc trong nền kinh tế Việt Nam lớn hơn sẽ "tác động tiêu cực đến an ninh tài chính, an ninh tiền tệ của Việt Nam". Chưa kể với tỷ trọng thương mại chiếm 10% xuất khẩu và 25% nhập khẩu, rổ dự trữ thanh toán sẽ phải giảm tỷ trọng Mỹ kim và thêm vào đó tỷ trọng Yuan – làm phức tạp hơn cho quản lý trong bối cảnh trình độ quản lý tiền tệ của Việt Nam vẫn còn chưa có nhiều kinh nghiệm. Ngoài ra sẽ không bao giờ dẹp được giao dịch trực tiếp qua biên mậu, và theo đó, những vấn đề như nhập siêu, quản lý chất lượng hàng hóa sẽ không thể cải thiện được… Ông Thành quả là chủ quan, mà chẳng phải chỉ có ông Thành… Ba năm đủ để phân tích, khuyến cáo, cảnh báo của các chuyên gia kinh tế trong và ngoài Việt Nam, góp ý của doanh giới hóa… bùn. Tháng 1 năm nay, chính phủ Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành Nghị định 14/2018/NĐ-CP "Quy định chi tiết về hoạt động thương mại biên giới". Đúng tám tháng sau, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư 19/2018/TT-NHNN "Hướng dẫn về Quản lý ngoại hối đối với hoạt động thương mại biên giới Việt Nam - Trung Quốc", theo đó, sử dụng Yuan để thanh toán trực tiếp cho các giao dịch thương mại trên lãnh thổ Việt Nam và ủy thác thanh toán qua hệ thống ngân hàng sẽ có hiệu lực vào tháng tới. Hai tuần trước Quốc khánh lần thứ 73 của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị, hệ thống công quyền Việt Nam công khai báo động về khả năng biểu tình vào dịp 2 tháng 9. Song song với khuyến cáo được phát cho từng gia đình, lực lượng vũ trang rùng rùng chuyển động – nhanh chóng bày ra quyết tâm đè bẹp, trừng trị thẳng tay tất cả các hành động phản kháng ôn hòa. Đây có lẽ là lần đầu tiên kể từ khi quốc gia thống nhất, Quốc khánh của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam trôi qua trong tình trạng các lực lượng vũ trang" được đặt vào tình huống "sẵn sàng chiến đấu" trên toàn lãnh thổ. Có một điểm mà tới giờ này, những người quan sát các diễn biến thời sự tại Việt Nam vẫn chưa tìm được câu trả lời cho thắc mắc: Hệ thống công quyền Việt Nam dựa vào đâu để dự đoán sẽ có biểu tình trên diện rộng vào dịp Quốc khánh? Nếu xem mạng xã hội là một thứ phong vũ biểu và so diễn biến trên mạng xã hội trong nửa đầu tháng 6 năm nay (thời điểm hệ thống chính trị Việt Nam thúc ép Quốc hội Việt Nam thông qua luật đặc khu) với nửa cuối tháng 8 vừa qua thì rõ ràng những dấu hiệu cho thấy khả năng bùng phát biểu tình, bạo động trên diện rộng vào dịp Quốc khánh rất mờ nhạt. Liệu chuỗi hành động báo động – quảng bá quyết tâm – biểu diễn năng lực trấn áp của hệ thống công quyền Việt Nam có liên quan đến Thông tư 19/2018/TT-NHNN không, khi "răn đe" vẫn được xem như một giải pháp hữu hiệu để duy trì quyền lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng CSVN? Cách nay ba năm rưỡi, đề nghị của Hiệp hội Doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam và ICBC – cho phép sử dụng Yuan trong các giao dịch thương mại trên lãnh thổ Việt Nam - từng làm dư luận Việt Nam dậy sóng. Giờ, khi đề nghị đó trở thành hiện thực, tại sao phản ứng của báo giới, của các chuyên gia kinh tế, doanh nhân, doanh giới Việt Nam lại khẽ khàng, nhẹ nhàng như đó là chuyện tất nhiên của thực trạng Trung Quốc đã muốn thì Việt Nam phải chiều? Chú thích | ||||||
Hết ODA, 'nghề công chức' mất giá Posted: 04 Sep 2018 03:30 PM PDT Tiệc ăn chực nào cũng phải có lúc tàn. Chẵn một phần tư thế kỷ từ lúc bắt đầu 'ăn đủ, ăn dày' nguồn tiền ODA - viện trợ phát triển chính thức - của thế giới 'tư bản giãy chết', đến tháng Tám năm 2018 chính thể độc đảng ở Việt Nam đã phải gián tiếp thừa nhận hiện thực nợ công ngập đầu: ODA chỉ còn rất ít hoặc sẽ hết sạch. Những ai sẽ phải thất vọng và tuyệt vọng? Đứng đầu bảng nạn nhân của hậu quả nợ công ODA là dân. Luôn là nhân dân. Núi nợ 210% GDP và quả báo ứng nghiệm! Liệu con số 35 triệu đồng nợ công đè lên mỗi đầu dân từ người già sắp chết đến trẻ sơ sinh mà Bộ Kế hoạch và Đầu tư - cơ quan có trách nhiệm chính 'quản lý nguồn vốn ODA' nhưng từ mấy năm qua đã có nhiều biểu hiện muốn 'nghỉ ngơi vì quá no' và muốn đẩy bớt trách trách nhiệm cho các cơ quan khác như Bộ Công thương, Ngân hàng nhà nước, Văn phòng chính phủ cũng đang 'no' không kém - công bố có đúng với thực tế? Thực tế còn khốn quẫn hơn nhiều, rất nhiều. Trong khi vào thời thủ tướng bị xem là 'phá chưa từng có' - Nguyễn Tấn Dũng - trị vì 9 năm và cũng là thời vay mượn ODA xả láng bất cần hậu quả nhất, tỷ lệ nợ công quốc gia luôn bị ép dưới 65% GDP - tức chỉ khoảng 130 tỷ USD, thì con số nợ công trần trụi hơn rất nhiều đã lên tới 431 tỷ USD - tức chiếm đến 210% GDP, vượt rất xa ngưỡng cho phép 65% GDP (theo tiêu chí thế giới) và thực chất đã quá nguy hiểm đối với một đất nước mà mức độ tàn tạ về tài nguyên thiên nhiên và ngân sách luôn tỷ lệ thuận với thói 'ăn của dân không chừa thứ gì'. Việt Nam đương đại năm 2018 và 'toàn đảng, toàn quân, toàn dân lập thành tích tiến tới đại hội 13' vào năm 2021. Trong cơn mê sảng quằn quại giai đoạn cuối, quả báo đã ứng nghiệm. Hạn ngạch đạo đức hay giới hạn chấm mút? Quả báo ODA đã chính thức bắt đầu từ năm 2012. Ngay trước thềm hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ giữa kỳ năm 2012, Bộ Ngoại Giao Đan Mạch đã không ngần ngại tuyên bố ngừng 3/4 dự án ODA tài trợ cho Việt Nam do nghi ngờ một số cơ quan đơn vị sử dụng chi sai khoảng 11,4 tỷ đồng trên tổng số tiền 69 tỷ đồng do Đan Mạch tài trợ, tương đương khoảng 19,9 triệu cua-ron. Đến năm 2013, Thụy Điển đã bắt buộc phải ngừng vô thời hạn các khoản viện trợ ODA cho Việt Nam sau khi phát hiện hàng loạt gian dối của quan chức Việt. Sau đó cả Bộ Ngoại Giao Australia vài vài quốc gia khác cũng bắt đầu cắt giảm viện trợ. Một trong những "gương người tốt việc tốt" ghê gớm nhất là vụ PMU18 vào năm 2006, với hình ảnh rất tiêu biểu của trưởng ban PMU18 Bùi Tiến Dũng thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải - một kẻ tắm bia khi quan hệ với gái. Sau đó, báo chí Nhật Bản - chứ không phải báo chí Việt Nam - đã phát hiện công ty tư vấn quốc tế Thái Bình Dương của Nhật đã phải hối lộ cho quan chức Việt Nam phụ trách dự án đại lộ Đông-Tây ở Sài Gòn một phần hoa hồng tương đương 10% giá trị hợp đồng. Lúc đó cũng là một trưởng ban của PMU Đông-Tây là Huỳnh Ngọc Sĩ đã nhận số tiền hối lộ trên 800.000 đô la. Chỉ vài tuần lễ sau khi xảy ra vụ việc 6 quan chức ngành đường sắt Việt Nam bị bắt tạm giam do bị nghi nhận tổng cộng 16 tỷ đồng tiền hối lộ từ công ty Tư Vấn Giao Thông Nhật Bản (JTC), vào đầu tháng Sáu năm 2014, Bộ Ngoại Giao Nhật Bản đã ra thông báo cho biết các khoản vay mới bằng đồng yen và các khoản tài trợ cho dự án đường sắt đô thị Hà Nội đã bị đình chỉ. Hạn ngạch đạo đức giới quan chức tham nhũng ODA đã không còn biết giới hạn chấm mút là gì. Thậm chí còn có những tỉ lệ tham nhũng, thất thoát cụ thể đối với ODA ở Việt Nam. Trong một lần hiếm hoi được 'mở miệng', báo điện tử Vietnamnet đã nêu ra một minh họa cụ thể: từ năm 2009-2010, sau khi đại sứ quán Nhật tại Việt Nam loan báo sẽ viện trợ không hoàn lại để một số tỉnh xây trường học, đường sá hạ tầng& thì có một phụ nữ mà tờ báo không dám nêu tên, chỉ cho biết là cư ngụ tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, đã liên lạc với lãnh đạo nhiều xã ở Hà Tĩnh để đặt vấn đề chạy dự án, với điều kiện khi thành công phải cắt cho bà ta 40%. Sau đó nguồn vốn ODA đã được rót về cho ba xã ở Hà Tĩnh, trong đó có một xã tên là Gia Phố được nhận 80,000 đô la để xây dựng trường tiểu học. Chính quyền xã này đã lấy 8.000 đô la chia cho nhau, rồi lấy thêm 24.000 đô la chi cho người phụ nữ làm môi giới. Tỉ lệ 40% tương tự cũng xảy ra ở huyện Cẩm Xuyên. Do bị ăn chặn thảm thiết đến thế, các cơ sở giáo dục, đường sá ở ba xã trên đều sụt giảm mạnh về quy mô và chất lượng. Còn rất nhiều dẫn chứng khác về lãng phí và "ăn dày" ODA, đặc biệt là những dự án sử dụng vốn ưu đãi trong lĩnh vực giao thông bị chậm tiến độ và đội vốn lớn so với tổng mức dự kiến đầu tư ban đầu như dự án tuyến metro Nhổn - ga Hà Nội, dự án đường sắt trên cao Cát Linh - Hà Đông ở Hà Nội, dự án xây dựng tuyến metro số 1 (Bến Thành-Suối Tiên) và dự án metro tuyến Bến Thành-Tham Lương ở Sài Gòn... Thế nhưng điều kỳ quái lạ là cho đến nay, bất chấp yêu cầu trong rất nhiều lần các tổ chức tài trợ quốc tế và giới chuyên gia phản biện trong nước, ở Việt Nam vẫn chưa có bất kỳ tổ chức giám kiểm độc lập nào cho một khu vực được coi là nhạy cảm như ODA. Những tổ chức phi chính phủ Việt Nam muốn làm việc này thì không được cho phép thành lập, trong khi đó những tổ chức phi chính phủ nước ngoài vốn có truyền thống kiểm định những dự án lớn như thế này lại chưa hoạt động ở Việt Nam, và cũng chưa được được một cơ quan nhà nước Việt Nam nào mời. Các cơ quan quản lý Việt Nam chỉ muốn 'ôm' và 'ăn'… Cạn ODA và bi kịch vĩ đại 2018, sau vài chục năm "vay mượn, vay mượn ồ ạt cho đến khi sụp đổ," ngân sách Việt Nam đã biến thành một tổ mối đúng nghĩa: tỉ lệ nợ công/GDP vượt xa giới hạn nguy hiểm, còn cộng đồng tài chính quốc tế đang thẳng tay "cấm cửa" vay mượn ODA đối với chính thể mà ngay giới chuyên gia quốc tế còn rành rẽ một giai thoại dân gian: một chương trình an sinh xã hội của chính phủ Việt Nam nhận nguồn ODA có tên là 'Chương trình 135', nhưng khi tiền được phân bổ từ cấp cơ quan trung ương xuống cơ quan địa phương rồi đến tay người dân thì đã biến thành công thức '5 - 3 - 1', tức những người khốn khổ nhất trong xã hội lầm than này chỉ nhận một phần quá nhỏ nhưng vẫn phải tự nguyện 'cám ơn đảng và nhà nước ta', cũng tự nguyện làm bình phong để giới quan chức có cớ 'xóa đói giảm nghèo' để xin ODA. 2018, sau vài chục năm nhận 'lộc trời', ODA đã trở thành một trong những bi kịch 'vĩ đại' nhất của chính thể Việt Nam. Bi kịch đến nỗi mà vào một buổi sáng mùa thu năm 2017, Thủ tướng Phúc đã phải "đề nghị Ngân hàng thế giới tìm kiếm nguồn vốn tài trợ cho Việt Nam các khoản không hoàn lại để giảm tối đa làm chi phí vay vốn, tăng thành tố ưu đãi của các khoản vay" - cử chỉ xin tiền đầu tiên và hình như không còn quá chú tâm về lòng tự trọng kể từ ngày quan chức này phải lãnh trách nhiệm 'đổ vỏ' cho đời thủ tướng trước bị xem là 'phá chưa từng có' là Nguyễn Tấn Dũng… Bi kịch đến mức mà vào cuối tháng Sáu năm 2018, cuộc gặp của Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ với Bộ Tài chính Hoa Kỳ ở Washington đã khiến lộ ra một 'bí mật quốc gia' mà mấy năm qua giới quan chức Việt Nam cố tình giấu nhẹm: ông Huệ đề nghị Mỹ "mở lại kênh cho vay ODA và vay ưu đãi cho Việt Nam, tăng cường các chương trình viện trợ trực tiếp và gián tiếp thông qua các tổ chức phi chính phủ để thực hiện các dự án nhân đạo và hỗ trợ phát triển tại Việt Nam". Cũng có nghĩa là trong những năm gần đây, lượng ODA và viện trợ không hoàn lại được cấp từ Mỹ cho Việt Nam đã giảm về 0. Nhưng Mỹ không phải là quốc gia duy nhất đặt Việt Nam vào trạng thái zero viện trợ, mà động thái này như thể 'không hẹn mà gặp' đã diễn ra phổ biến ở gần hết các nước cấp viện trợ cho Việt Nam, dẫn đến một phát hiện lớn mà 'đảng và nhà nước ta' đã không dám công bố trong suốt 4 năm qua: từ năm 2014 đến năm 2018, viện trợ ODA cho Việt Nam luôn cận kề với vạch 0. Đến lúc này, người ta đã có thể hiểu vì sao giới quan chức cao cấp Việt Nam đã tận dụng các sự kiện hội thảo quốc tế, các cuộc gặp song phương ở Hà Nội lẫn các chuyến công du nước ngoài để phát ngôn 'xin tiền' không biết mệt mỏi. Hết mật, sạch ruồi và 'tìm đâu ra nhân tài' 2018 rất có thể là năm chứng kiến sự sụt giảm thảm thiết nhất của nguồn vốn ODA (viện trợ phát triển chính thức) vào Việt Nam, bổ túc một dấu ấn cho năm 'thắng lợi kinh tế chưa từng có' và 'tiếp tục gặt hái nhiều thành công đối ngoại' theo lối tuyên truyền không còn biết trời cao đất dày của chính thể độc đảng này, chìm nghỉm trong bức tranh tổng thể mang gam màu xám ngoét - được đặc tả bởi sự phối ngẫu của ba thành phần 'binh chủng hợp thành': nợ công - nợ xấu - ngân sách. Tháng Tám năm 2018, tròn một năm sau khi Việt Nam bị các tổ chức tín dụng quốc tế là Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Á châu (ADB) chính thức tăng lãi suất cho vay gấp 3 lần và giảm thời gian ân hạn xuống chỉ còn một nửa, các cơ quan quản lý trên dải đất 'lệ tuôn hình chữ S' cùng giàn đồng ca của hơn nhiều tờ báo nhà nước một lần nữa rên la thống thiết 'Gánh nặng ODA', 'Nhiều dự án vay vốn ODA không có khả năng trả nợ', 'Xác định rõ trách nhiệm để ODA vượt trần 300.000 tỷ', 'Cân nhắc sử dụng nguồn ODA', 'ODA đã hết hấp dẫn'… Không chịu cải cách thể chế, cũng chẳng chịu cải thiện nhân quyền một cách thực tâm, chi tiết và bằng hành động mà vẫn là thói trớt trả miệng lưỡi như trước đây, chính thể độc trị ở Việt Nam vào năm 2019 có thể sẽ nhận được con zero to tướng giá trị ODA mà các tổ chức quốc tế ký kết với Việt Nam. Nghề công chức liên quan đến nhiệm vụ 'tiếp nhận và điều tiết nguồn viện trợ ODA' ở Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Sở Kế hoạch và Đầu tư ở các tỉnh thành cũng bởi thế đang và sẽ kém hẳn phần hấp dẫn so với thời vàng son trong dĩ vãng. Nếu trong dĩ vãng phải chạy tiền đậm mới có thể được trở thành công chức ngồi thực thi công thức '5 - 3 - 1', thì nay và những năm tháng tới, chỗ nào hết mật sẽ tự nhiên sạch bóng ruồi. Nếu dân Việt tuyệt vọng vì núi nợ công trên đầu mình thì giới quan chức cũng cuống cuồng thất vọng: chẳng còn gì để 'ăn'. Hẳn đó là nguồn cơn vừa sâu xa vừa trực tiếp đã khiến gần đây một số quan chức Bộ Kế hoạch và Đầu tư phải than vãn 'khó tìm được nhân tài' cho bộ này… | ||||||
Chính phủ kiến tạo: Gạt nhau không được thì… thôi! Posted: 04 Sep 2018 03:29 PM PDT Bài "Chia nhỏ, đổi tên dự án để xây trung tâm hành chính ngàn tỉ?" trên tờ Thanh Niên số ra ngày 3 tháng 9 rất ngắn nhưng lại khắc họa rất rõ nét diện mạo – khả năng "kiến tạo" của chính phủ… Theo bài viết vừa dẫn thì chính quyền tỉnh Hải Dương vừa đề nghị Thủ tướng Việt Nam cho "điều chỉnh hình thức đầu tư của công trình Trung tâm Hội nghị và Quảng trường". Người ta phát giác "công trình Trung tâm Hội nghị và Quảng trường" là một phần của "công trình Trung tâm Hành chính tỉnh Hải Dương". Năm 2014, chính quyền tỉnh Hải Dương đệ trình kế hoạch thực hiện "công trình Trung tâm Hành chính tỉnh Hải Dương" (bao gồm: Trung tâm Hội nghị, Quảng trường, trụ sở của Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân, Đoàn Đại biểu Quốc hội và các sở, ngành của Hải Dương), tổng vốn đầu tư là 2.600 tỉ đồng. Khoản tiền khổng lồ này sẽ được gom lại từ việc bán công thổ, công thự và chính phủ rút công khố giúp chính quyền tỉnh Hải Dương bù cho đủ. Xây dựng các "trung tâm hành chính" vốn là một thứ dịch tại Việt Nam. Thay vì bận tâm về việc làm sao phát triển địa phương theo đúng nghĩa của hai từ này thì chính quyền các tỉnh, thành phố tại Việt Nam chỉ chú ý đến chuyện làm sao để "trung tâm hành chính" của mình to, đẹp hơn các tỉnh, thành phố khác. Với lý do gom tất cả cơ quan công quyền về một chỗ sẽ "tạo sự thuận lợi cho dân chúng khi cần giao dịch hành chính", ngân khố Việt Nam đã chi cả trăm ngàn tỉ cho các "trung tâm hành chính": Sau khi chính quyền tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu chi 1.000 tỉ xây "trung tâm hành chính" ở thành phố Bà Rịa, chính quyền tỉnh Bình Dương chi 1.400 tỉ xây "trung tâm hành chính" ở thành phố mới Bình Dương. Bởi chính quyền thành phố Đà Nẵng nâng mức chi tiêu cho "trung tâm hành chính" của thành phố Đà Nẵng lên 2.000 tỉ nên chính quyền tỉnh Đồng Nai chi 2.200 tỉ cho việc xây dựng một "trung tâm hành chính" ở thành phố Biên Hòa. Chính quyền tỉnh Khánh Hòa muốn phá kỷ lục nên nâng mức chi tiêu cho "trung tâm hành chính" ở thành phố Nha Trang lên 3.000 tỉ,… Phong trào xây dựng các "trung tâm hành chính", "quảng trường", tượng đài", "cổng chào", "tháp biểu tượng",… phát triển không ngưng nghỉ thành ra năm ngoái, lúc Văn phòng Chính phủ Việt Nam công bố "kế hoạch vay - trả nợ 2017", thiên hạ không ngạc nhiên khi chính phủ dùng tới 316.300 tỉ đồng/342.060 tỉ mà Việt Nam dự trù hỏi vay (243.300 tỉ đồng vay các nguồn trong nước và vay thêm của các quốc gia khác 98.760 tỉ đồng) để "cân đối ngân sách". "Cân đối ngân sách" là bù đắp bội chi (172.300 tỉ đồng) và trả nợ gốc (144.000 tỷ đồng)! Cần lưu ý rằng, do thu không đủ chi, phải liên tục vay mượn để chi nên hồi tháng 11 năm 2015, Thủ tướng Việt Nam đã yêu cầu chính quyền các tỉnh, thành phố trực thuộc chính quyền trung ương, tạm ngưng xây dựng các "trung tâm hành chính". Chính quyền tỉnh Hải Dương không cam tâm nên tìm đủ mọi cách thực hiện cho bằng được "công trình Trung tâm Hành chính tỉnh Hải Dương": Chẻ công trình thành nhiều phần, đặt tên mới cho từng phần ("Trung tâm Hội nghị và Quảng trường" được tách ra khỏi "công trình Trung tâm Hành chính tỉnh Hải Dương" để trở thành "Trung tâm Văn hóa xứ Đông"), tổ chức đấu giá quyền sử dụng đất dự án Ecoriver (Khu Đô thị ven sông Thái Bình) thu về để đó 850 tỉ đồng rồi xin thực hiện "Trung tâm Văn hóa xứ Đông" (1)… Nhìn một cách tổng quát, chính quyền tỉnh Hài Dương không chỉ bất tuân thượng lệnh mà còn sắp đặt kế hoạch để gạt thượng cấp… Cứ như tường thuật của tờ Thanh Niên thì chính quyền tỉnh Hài Dương không qua mặt được Bộ Xây dựng và thay mặt chính phủ Việt Nam, bộ này chỉ yêu cầu chính quyền tỉnh Hải Dương giải thích tường tận tại sao phân kỳ xây dựng "công trình Trung tâm Hành chính tỉnh Hải Dương", đồng thời nhắc nhở chủ trương chung rằng tạm thời, không được dùng công quỹ để xây các "trung tâm hành chính" rồi… thôi! *** Đâu chỉ có chính quyền tỉnh Hải Dương! Lệnh tạm ngưng xây dựng các "trung tâm hành chính" được ban hành hồi tháng 11 năm 2015 nhưng trong hai năm 2016, 2017, chính quyền các tỉnh Long An (2), Vĩnh Long (3), Thanh Hóa (4),… vẫn thi nhau bán công thổ, công thự để hoàn thiện các "trung tâm hành chính" kèm biện bạch theo kiểu "chủ động, tự cân đối nguồn vốn" chỉ xin hỗ trợ một phần từ công quỹ. Từ lúc nào công thổ, công thự không được xem là công sản thành ra không cần tiết kiệm, "chủ động" bán bao nhiêu để "tự cân đối" cũng được? Còn có quốc gia nào khác dưới gầm Trời này, lệnh từ chính phủ là một chuyện, chính quyền các cấp có thực thi hay không lại là chuyện khác, cả giới có thẩm quyền ra lệnh lẫn giới có nghĩa vụ thừa hành cùng xem không tuân thủ là bình thường, chẳng có gì đáng phải bận tâm? Không thấy cấp nào, chẳng có ngành nào "chủ động, tự cân đối nguồn vốn" cải tạo, xây dựng các công trình phúc lợi, phục vụ dân sinh, vẫn chỉ là hệ thống công quyền từ trên xuống dưới tìm đủ mọi cách giành giựt, gạt lẫn nhau để dựng lên những "trung tâm hành chính", "quảng trường", tượng đài", "cổng chào", "tháp biểu tượng",…to hơn, tốn kém nhiều hơn. "Tiết kiệm, chống lãng phí" vẫn chỉ là khẩu hiệu, chẳng ai bảo được ai, chẳng thấy viên chức nào âu lo khi nợ nần chồng chất, nội lực quốc gia suy kiệt. "Chính phủ kiến tạo" vận hành theo kiểu như thế thì sẽ kiến tạo ra thứ gì? Nhà mồ chăng? Chú thích (1) https://thanhnien.vn/thoi-su/chia-nho-doi-ten-du-an-de-xay-trung-tam-hanh-chinh-ngan-ti-999505.html | ||||||
Quốc ngữ và nỗ lực 'thoát Hán' của các vua nhà Nguyễn Posted: 04 Sep 2018 03:26 PM PDT Nguyễn Quang DuyGửi tới Diễn đàn BBC từ Melbourne, Úc Trên Diễn đàn BBC nhà báo Nguyễn Giang đưa ra một cách nhìn khá mới lạ để ghi công và đánh giá những nhân vật lịch sử đã đóng góp cho việc truyền bá chữ Quốc ngữ. "Các vị truyền giáo có công tạo ra bộ mẫu chữ, nhưng việc này không có gì quá độc đáo hay quá khó khăn và giả sử nếu không có họ thì việc đó cũng có thể làm được sau này." Ý kiến cũng nói rằng Trung Hoa, Thái Lan, Ấn Độ, Ả Rập, Thổ Nhĩ Kỳ và nhiều quốc gia khác đều đã có những văn tự bằng tiếng La Tinh nhưng chưa bao giờ trở thành chữ quốc ngữ của họ. Cũng theo nhà báo Nguyễn Giang, Đông Kinh Nghĩa Thục chỉ xóa hàng rào cản tâm lý quá lạc hậu để giới sỹ phu yên tâm dùng chữ Quốc ngữ. Xem bài:Những người giúp chữ Quốc ngữ 'làm nên'củaNguyễn Giang Và rằng chính nỗ lực tiên phong quảng bá quốc ngữ là của trí thức miền Nam và nhờ chính sách tiến bộ, khoa học của chính quyền Pháp tại Đông Dương tạo đà cho chữ Quốc ngữ lan tỏa. Nhưng tôi nghĩ cũng lạ tại sao ba nước Việt, Miên và Lào có chung hoàn cảnh, đều là thuộc địa của Pháp mà Miên và Lào lại không sử dụng La Tinh làm chữ quốc ngữ. Ở đây cần xem cả đến công lao các vị vua cuối cùng của triều Nguyễn, dù họ không thực sự nắm quyền thời Pháp thuộc. Sắc lệnh của Vua Thành TháiTheo sử gia Liam Kelley (2016) vào đầu thế kỷ XX cả người Pháp lẫn những nhà cách mạng đều không đủ quyền lực để chữ Quốc ngữ có thể lan ra sâu rộng xuống đến tận làng quê. Qua nghiên cứu những nguồn tài liệu trong giai đoạn này, sử gia Liam Kelley kết luận chính nhà Nguyễn mới đi đầu trong công cuộc cải cách giáo dục. Trong bài "Emperor Thành Thái's Educational Revolution", Liam Kelley (2016) đã công bố sắc lệnh của vua Thành Thái được lưu trữ trong Đại Nam Hội Điển Sử Lệ Tục Biên. Bài viết được Nguyễn Hồng Phúc lược dịch có đoạn như sau: "Hoàng đế Thành Thái đã tuyên bố trong một sắc lệnh rằng vào năm trị vì thứ 18 của ông (năm 1906), cha mẹ có thể quyết định việc cho con theo học một trường ấu học Hán văn hoặc một chương trình giảng dạy Nam âm (Quốc ngữ). Với những người học theo chương trình Hán văn, sẽ có một cuốn sách giáo khoa được soạn ra nhằm giới thiệu những từ chữ Hán theo cấp độ khó dần. Nó cũng bao gồm một danh mục các Hán tự kèm theo phiên âm và định nghĩa bằng quốc ngữ được dùng trong tài liệu. …Trong khi, một cuốn sách giáo khoa bằng quốc ngữ khác sẽ được soạn ra để dạy những người theo chương trình học 'Nam âm' nhằm giới thiệu cho họ những thông tin cơ bản về xứ Đông Dương, thiết chế cai trị của nó, những phong tục tập quán... Thêm vào đó, cũng có thêm một cuốn sách nữa được dịch từ Hán văn sang Nam âm nhằm cung cấp những loại thông tin mà học viên đang luyện thi khoa cử cần biết. Bản dịch này được soạn ra cho những người không muốn thi khoa cử, nhưng nó vẫn được đưa vào chương trình để cho họ biết thêm về những gì mà những người đang luyện thi khoa cử phải học…" Sắc lệnh này vô cùng quan trọng vì khi nhà vua ra lệnh sử dụng chữ Quốc ngữ là nhà vua đã công khai ý định muốn thấy tầng lớp quan lại và sỹ phu phải thoát khỏi ảnh hưởng Trung Hoa trong giáo dục, văn hóa, và nhất là tư tưởng. Vừa thoát Trung vừa chống PhápXin nhắc lại về cuộc đời vị vua trẻ tuổi. Sinh năm 1979, vua Thành Thái lên ngôi năm 1889, khi mới 10 tuổi, và đến năm 1907 bị Pháp ép thoái vị. Ngài bị quản thúc ở Vũng Tàu rồi đến năm 1916 bị đày sang đảo Réunion. Vua là người cầu tiến, học tiếng Pháp, có hiểu biết khá toàn diện, cắt tóc ngắn, mặc Âu phục, phong cách của người theo tân học. Vua thường xuyên tiếp xúc với sỹ phu và dân chúng, đồng thời trọng dụng nhiều nhân tài, thanh liêm, đức độ với hy vọng khôi phục và canh tân đất nước. Sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ chính là văn bản ủng hộ Phong Trào Duy Tân (1906) và Đông Kinh Nghĩa Thục (1907) thúc đẩy việc theo tân học và dùng chữ quốc ngữ. Cắt tóc ngắn trở thành một dấu hiệu của người theo tân học. Nhiều thanh niên lúc ấy sắm cho mình một cái kéo, đi tuyên truyền, vận động cắt tóc và vận động canh tân. Đến khi Vua bị người Pháp ép thoái vị năm 1907 hình ảnh một vị vua yêu nước, chống Pháp, cắt tóc ngắn nhanh chóng lan tỏa xuống đến tầng lớp nông dân. Tháng 3 năm 1908, bắt đầu từ tỉnh Quảng Nam, nông dân đầu cắt tóc ngắn lũ lượt kéo đến các phủ huyện đòi giảm sưu giảm thuế. Tất cả đều hớt tóc ngắn đi thành đoàn, phong trào mở rộng vào Nam đến Bình Định, Phú Yên và ra Bắc đến Nghệ An, Hà Tĩnh. Pháp và triều Nguyễn gọi cuộc biến động này là Giặc cắt tóc, ở Bình Định gọi là Giặc đồng bào, sau được đổi lại là cuộc Dân biến Trung kỳ. Đây là cuộc đấu tranh bất bạo động đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và đoàn biểu tình lấy biểu tượng là Vua Thành Thái một vị vua yêu nước, theo tân học nhưng chống Pháp. Như vậy ngay từ đầu thế kỷ thứ 20, người Việt đã công khai thực hành phương pháp đấu tranh bất bạo động với biểu tượng vua Thành Thái, có tổ chức, có chiến thuật, có mục tiêu và có chiến lược một cách rất rõ ràng. Cuộc đấu tranh bất bạo động bị Pháp đàn áp dã man. Nhiều người tổ chức và tham dự bị bắt, phong trào Duy Tân và Đông Kinh Nghĩa Thục bị dập tắt. Các vị vua tiếp tục cải cáchNăm 1907 vua Duy Tân tiếp nối việc cải cách giáo dục bằng cách cho thành lập Bộ Học nhằm cai quản việc học hành và thi cử. Thượng thư Bộ Học Cao Xuân Dục là một nhà giáo dục cổ vũ thực học, thực tài, bỏ đi kiểu học từ chương, xa rời thực tế và chủ trương phát triển nền giáo dục "không học vì bằng cấp" mà phải học lấy thực tài để ra giúp dân, giúp nước. Đáng tiếc ông lại hết sức bài bác chữ Quốc ngữ, nhưng không phải vì thế mà chữ Quốc ngữ bị đưa ra khỏi nền giáo dục. Theo Trần Gia Phụng từ năm 1909, chương trình thi Hương bắt buộc thí sinh phải làm các đề thi luận văn bằng cả chữ Hán lẫn chữ Quốc ngữ. Ngày 26 tháng 11 âm lịch năm Mậu Ngọ (tức ngày 28/12/1918) vua Khải Định ra đạo dụ chính thức bãi bỏ khoa cử kiểu Hán học. Năm 1919 là năm cuối mở khoa thi Hương ở Huế, từ đó chữ Quốc ngữ thành chữ viết chính thức của người Việt Nam. Vai trò của các ông giáo trường làngBên cạnh các trường công do triều đình và người Pháp lập ra là một hệ thống trường tư do các thầy đồ sau chuyển thành thầy giáo làng giảng dạy. Mỗi làng có khi lên đến vài ba trường, hoặc dạy ở nhà thầy, hoặc ở nhà người giàu có nuôi thầy cho con ăn học và cho con các nhà lân cận trong làng theo học. Thầy đồ đa số là những người có học, có người đỗ tú tài, có người là quan hồi hưu mở lớp dạy học. Thầy đồ hoàn toàn tự do không chịu sự giám sát của triều đình. Mặc dầu được tự do mở lớp giảng dạy giới thầy đồ vẫn giữ lòng trung với các vua nhà Nguyễn và với sách Thánh hiền. Các thầy đồ quyết liệt chống lại các chính sách giáo dục của nhà cầm quyền Pháp với quan niệm chữ Quốc ngữ là sản phẩm của ngoại bang và là công cụ của các nhà truyền giáo. Với họ, chữ Hán giáo dục về luân lí, về lịch sử, là chữ Thánh hiền còn Quốc ngữ chỉ để đọc báo, đọc Kinh Thánh, những sản phẩm của quân xâm lược, biết đọc chẳng ích lợi gì. Nhưng khi sắc lệnh cho dạy Quốc ngữ của vua Thành Thái được ban ra thì chính các thầy đồ đã thay đổi đã tự học chữ Quốc ngữ để truyền dạy lại cho học sinh. Ba lớp Đồng ấu học trước khi học sinh vào tiểu học đều do các thầy giáo trường làng dạy hoàn toàn bằng chữ Quốc ngữ. Nhờ thế chữ Quốc ngữ trở thành phổ thông đại chúng. Những bộ sách giáo khoa như Sử ký địa dư giáo khoa thư, Luân lý giáo khoa thư, Quốc văn giáo khoa thư, được học giả Trần Trọng Kim và các cộng sự biên soạn để dạy lớp ấu học trường làng. Bộ sách giáo khoa 'Việt Nam Sử lược' được học giả Trần Trọng Kim soạn để dạy các lớp cao hơn và đã hoàn toàn chỉ cho những người đã biết Quốc ngữ. Lên lớp nhì và lớp nhất ở trường chính phủ, mỗi tuần chỉ dạy chữ quốc ngữ một giờ rưỡi và bậc trung học chỉ dạy ba giờ. Thời gian còn lại học sinh được dạy bằng tiếng Pháp và hầu hết do người Pháp dạy. Từ đó ta thấy căn bản tiếng Việt, sử địa, luân lý, văn hóa về Việt Nam của học sinh hầu như đều thu nhận được từ các thầy giáo trường làng. Vua Bảo Đại là người Tây HọcTốt nghiệp trường Khoa học Chính trị Paris về nước, vua Bảo Đại bắt tay ngay vào việc cải cách đất nước, mong từng bước khôi phục lại chủ quyền quốc gia. Ngày 10/12 năm 1932, vua Bảo Đại cho công bố đạo dụ nước ta theo chế độ Quân chủ Lập hiến, nhà vua sẽ trực tiếp điều khiển nội các và cho cải cách hành chính, giáo dục và tư pháp. Một nội các mới đã được thành lập gồm những người trẻ theo tân học như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Diệm, Nguyễn Đệ… Bộ Học được đổi tên thành Bộ Giáo dục và giao cho Phạm Quỳnh từng là chủ nhiệm báo Nam Phong một người luôn tha thiết với chữ Quốc ngữ điều hành. Các cuộc cải cách của vua Bảo Đại đều bị người Pháp cản trở, riêng cải cách về giáo dục nhờ Phạm Quỳnh được người Pháp tin nên ít bị cản trở. Chữ Quốc ngữ được tăng giờ dạy ở các trường công. Nhờ thế sau khi Nhật đảo chánh Pháp, trao trả độc lập cho Việt Nam, chỉ trong vòng 5 tháng chính phủ Trần Trọng Kim đã thực hiện thành công cuộc cải cách lấy chữ Quốc ngữ làm ngôn ngữ chính trong giáo dục. Bộ trưởng Giáo dục Hoàng Xuân Hãn có công lao lớn khi soạn cả sách toán và kỹ thuật bằng tiếng Việt Quốc ngữ để dạy ngay trong niên học 1945-46 tại miền Bắc và miền Trung. Từ 1948 đến 1955, chính phủ Quốc gia Việt Nam tiếp tục lấy tiếng Việt làm ngôn ngữ giảng dạy đến hết bậc trung học. Bắt đầu từ chuyển biến tư tưởng thời Thành TháiHọc tiếng Pháp, theo tân học thoát khỏi tư tưởng Trung Hoa nên vua Thành Thái đã hiểu rõ những khái niệm về tự do, dân chủ, quốc gia, dân tộc, quân chủ, cộng hòa… hiểu từ sách Pháp không phải từ sách Trung Hoa. Thay đổi quan trọng nhất của nhà vua là về mặt tư tưởng, về ý thức đất nước không còn của nhà vua nữa mà là của quốc gia của dân tộc. Quốc gia là một thực thể độc lập có chủ quyền thoát khỏi tư tưởng thuộc địa hay chư hầu Trung Hoa. Khái niệm 'quốc gia' bắt đầu được sử dụng đối nghịch với 'thuộc địa', 'chư hầu'. Mặc dù không có quyền lực trong tay các vua triều Nguyễn đã thực hiện thành công cải cách từ giáo dục, văn hóa, đến chính trị đưa đất nước thoát khỏi ảnh hưởng của Trung Hoa. Bài học các vua triều Nguyễn đã thực hiện là nếu muốn cải cách giáo dục phải bắt đầu bằng thay đổi tư tưởng cho chính mình. Vì thế, theo tôi, nhu cầu thiết yếu của đất nước ngày nay không phải là cải cách tủn mủn về phát âm, ký tự Quốc ngữ mà phải vừa thoát khỏi một ý thức hệ duy nhất, vừa thoát Trung để khôi phục các nền tảng cơ bản cho Việt Nam. Bài viết thể hiện quan điểm riêng của ông Nguyễn Quang Duy, Melbourne, Australia. Quý vị có bài phản biện, ý kiến đa chiều về chủ đề này hoặc các vấn đề lịch sử Việt Nam, xin gửi về vietnamese@bbc.co.uk Xem bài về: Cuộc đảo chính Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương | ||||||
VNTB - Luật Giáo dục để làm gì? Posted: 04 Sep 2018 03:23 PM PDT Trúc Giang (VNTB) Giáo sư Hồ Ngọc Đại với dự án "Công nghệ giáo dục" (viết tắt là CGD) đã được thực nghiệm ngay trong hệ thống giáo dục công lập gần 40 năm qua, song vẫn chưa được nghiệm thu. Rồi đến phó giáo sư Bùi Hiền với dự án"cải tiến chữ Quốc ngữ" được Cục Bản quyền chấp nhận bảo hộ, tiếp tục dậy sóng dư luận phản đối. Câu hỏi đặt ra là nếu căn cứ vào Luật Giáo dục thì những vấn đề nói trên chịu sự điều chỉnh ra sao? Nguyên lý giáo dục của Việt Nam? "Nền giáo dục Việt Nam là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội". Điều 3, Luật Giáo dục 2005, đã viết như vậy.
Theo báo Giáo dục Việt Nam (Hiệp hội các Trường đại học, cao đẳng Việt Nam), thì giáo sư Hồ Ngọc Đại từng có phát biểu như sau: "Bản chất của giáo dục theo cách cũ là "ngu dân", phương pháp áp đặt, nội dung nghèo nàn, cư xử bằng cưỡng bức. Cách giáo dục ấy không tôn trọng cá nhân, kìm hãm trẻ con, hứa hão về tương lai. Còn tinh thần của CGD là giải phóng trẻ em, lấy hạnh phúc và sự phát triển tự nhiên của trẻ em làm mục tiêu. Mỗi em sẽ là một người duy nhất trong xã hội, các em phải khác nhau, khác bố mẹ và thầy cô, CGD tôn trọng suy nghĩ tự do và cá tính khác biệt". [http://bit.ly/2Q3snN8] Giáo sư Hồ Ngọc Đại còn được cho là từng kể: "Có một lần Tổng Bí thư Đỗ Mười hỏi tôi: "Trong công việc của mình, ai gây khó khăn cho anh nhiều nhất?". Tôi trả lời là "Toàn người tốt gây khó khăn cho tôi". "Tại sao lại thế?" - ông Đỗ Mười ngạc nhiên. Tôi trả lời: "Vì những người tốt đó họ tưởng tôi làm sai, để bảo vệ nền giáo dục đương thời nên họ phải chống lại lý thuyết của tôi". Phải nói thật là lý thuyết của tôi đã đảo ngược lại toàn bộ nền giáo dục của nước ta. Ví dụ, tôi đề ra các nguyên tắc: học trò là trung tâm chứ không phải là thầy giáo; học là chơi chứ không phải là quá trình vật lộn đau khổ; học không có thi cử, không có chấm điểm..." [nguồn: http://bit.ly/2Q3snN8] Như vậy, nếu nhìn dưới giác độ cáo buộc hình sự, giáo sư Hồ Ngọc Đại rất có thể đối mặt với "Tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân". Vi phạm Luật Giáo dục sao không xử lý? Những câu trích dẫn nói trên của giáo sư Hồ Ngọc Đại, vốn nằm trên website Hệ thống Giáo dục CGD Victory do chính giáo sư Hồ Ngọc Đại thành lập. Hiện tại thì các nội dung trích dẫn này chỉ còn mỗi địa chỉ, còn nội dung đã được tháo xuống. [xem tại http://bit.ly/2PwWLhP; http://bit.ly/2LRIg65] Rất có thể không hẳn đúng với sự thật và bối cảnh của những phát ngôn trích dẫn đó. Song việc Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chấp thuận để cho bộ sách giáo khoa do giáo sư Hồ Ngọc Đại biên soạn theo CGD mà ông cũng chính là tác giả, vào giảng dạy trong hệ thống giáo dục công lập trên toàn quốc, là một quyết định vi phạm Luật Giáo dục. Đơn cử, ngày 1/7/2016 Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Quyết định 2222/QĐ-BGDĐT về việc ban hành kế hoạch triển khai dạy học Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục năm học 2016 - 2017 tại 48 tỉnh thành [xem văn bản tại http://bit.ly/2wEuE8r] Quyết định 2222/QĐ-BGDĐT, tại phần II.7, ghi: "Chỉ đạo thực hiện có hiệu quả dạy học Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục tại 48 tỉnh, thành phố theo Quyết định số 2222/QĐ-BGDĐT ngày 01/7/2016 về việc ban hành Kế hoạch triển khai dạy học Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục năm học 2016-2017. Để triển khai hiệu quả dạy học Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục, các sở cần tổ chức tập huấn cấp tỉnh cho lãnh đạo, chuyên viên phòng giáo dục và đào tạo, trường tiểu học và toàn thể giáo viên trực tiếp dạy Tiếng Việt lớp 1 - Công nghệ giáo dục; chỉ đạo các phòng giáo dục và đào tạo tập huấn cấp huyện, tổ chức Hội thảo chuyên đề, sinh hoạt chuyên môn cụm trường, trao đổi kinh nghiệm và dạy minh họa khi chuyển sang mẫu bài mới; thường xuyên kiểm tra, hỗ trợ các trường trong quá trình thực hiện; chỉ đạo dạy học tăng thời lượng (nếu cần và có điều kiện); phối hợp sử dụng kĩ thuật dạy học tích cực để tổ chức dạy học; điều chỉnh ngữ liệu phù hợp với địa phương; tăng cường sử dụng đồ dùng dạy học nhưng không lạm dụng công nghệ thông tin trong quá trình dạy học; không tập trung giải nghĩa từ khi học sinh học ngữ âm; chú ý rèn kĩ năng nói cho học sinh; căn cứ chuẩn kiến thức kĩ năng Bộ GD&ĐT đã ban hành để thiết kế đề kiểm tra đánh giá định kì theo yêu cầu của môn học". Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển là người ký Quyết định 2222/QĐ-BGDĐT dưới sự đồng ý của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phạm Vũ Luận. Nội dung như vừa nêu đã vi phạm Điều 29, Luật Giáo dục vì nội dung sách giáo khoa Công nghệ giáo dục của giáo sư Hồ Ngọc Đại vẫn chưa được thẩm định theo đúng quy định. Ở Khoản 3, Điều 29, Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi năm 2009) quy định: "Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chương trình giáo dục phổ thông; duyệt và quyết định chọn sách giáo khoa để sử dụng chính thức, ổn định, thống nhất trong giảng dạy, học tập ở các cơ sở giáo dục phổ thông, bao gồm cả sách giáo khoa bằng chữ nổi, bằng tiếng dân tộc và sách giáo khoa cho học sinh trường chuyên biệt, trên cơ sở thẩm định của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định tiêu chuẩn, quy trình biên soạn, chỉnh sửa chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa; quy định nhiệm vụ, quyền hạn, phương thức hoạt động, tiêu chuẩn, số lượng và cơ cấu thành viên của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa. Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo chịu trách nhiệm về chất lượng chương trình giáo dục phổ thông và sách giáo khoa". Tham nhũng chính sách? Nhà giáo Vũ Thị Phương Anh nhận xét: "Tôi cho rằng nếu ông Hồ Ngọc Đại hay bất kỳ ai sử dụng tiền túi của mình để thử nghiệm thì rất đáng hoan hô; còn sách giáo khoa dạy theo phương pháp của ông, nếu do tác giả tự bỏ tiền túi in để cho ai muốn học thì mua, cũng không có gì đáng nói. Nhưng nếu nghiên cứu của ông Hồ Ngọc Đại có sử dụng tiền ngân sách, rồi sách giáo khoa của ông Hồ Ngọc Đại lại được bán độc quyền, và áp từ trên xuống trong giai đoạn làm VNEN (*) thì rõ ràng là không thể chấp nhận được". (*) Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam. GPE-VNEN, Global Partnership for Education – VNEN viết tắt của từ Viet Nam Escuela Nueva. | ||||||
Vì sao bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục" bị phản đối? Posted: 04 Sep 2018 03:21 PM PDT Hòa Ái, phóng viên RFABộ sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ giáo dục được giảng dạy trong năm học 2018-2019 gặp phải sự phản đối của không chỉ từ các bậc phụ huynh học sinh tiểu học, mà cả dư luận trong nước vì cách đánh vần mới trong bộ sách này. Phụ huynh lo lắngBáo mạng Lao Động Online, vào ngày 26 tháng 8, cho biết bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục" được áp dụng từ năm 2014 và trong năm học mới 2018-2019 có đến gần 50 tỉnh, thành cho học sinh học chương trình của bộ sách này. Những ngày qua, hàng trăm ý kiến phản hồi qua mạng xã hội và các trang fanpage của báo mạng quốc nội về chia sẻ của một số phụ huynh có con em bắt đầu vào lớp 1, phải học bộ sách vừa nêu rằng họ rất hoang mang với cách đánh vần mới, ví dụ các chữ "c", "k" và "q" đều đọc là /cờ/; hay các chữ "r", "d" và "gi" đều đọc là /dờ/…Do đó, học sinh không thể phân biệt được các từ khác nhau về nghĩa nhưng đồng âm khi đánh vần. Một điều đáng chú ý là bộ sách này chỉ áp dụng cho lớp 1 và học sinh học theo cách đánh vần mới, khi lên lớp 2 thì phải học theo cách đánh vần cũ. Nhiều phụ huynh bày tỏ rằng gia đình gặp trở ngại trong việc giúp đỡ cho các cháu học tập ở nhà. Bên cạnh cách đánh vần mới, bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục" còn dạy nhiều từ ngữ địa phương, khó hiểu. Một phụ huynh chia sẻ: "Sách lớp 1 năm nay có sự cải cách từ ngữ mà mình đọc không được, chẳng hạn như từ 'khuýp khùym khuỵp', những từ nhiều khi đọc bị trẹo miệng luôn. Sách tiếng Việt năm nay đưa vào những từ như vậy, mình sẽ không bao giờ có thể đọc và dạy cho các bé được. Khi mình đọc cái từ mà mình không hiểu nghĩa thì làm sao có thể giải thích cho con mình hiểu được." Sách lớp 1 năm nay có sự cải cách từ ngữ mà mình đọc không được, chẳng hạn như từ 'khuýp khùym khuỵp', những từ nhiều khi đọc bị trẹo miệng luôn. Sách tiếng Việt năm nay đưa vào những từ như vậy, mình sẽ không bao giờ có thể đọc và dạy cho các bé được. Khi mình đọc cái từ mà mình không hiểu nghĩa thì làm sao có thể giải thích cho con mình hiểu được Ý kiến của giới chuyên mônNhà giáo Phạm Toàn, thuộc Nhóm làm sách Cánh Buồm-một bộ sách 36 cuốn cho 6 lớp tiểu học, vào ngày 29 tháng 8, phổ biến một bài viết với mục đích để mọi người cùng hiểu cách tổ chức học sinh lớp 1 học tiếng Việt. Trong bài viết với tựa đề "Hạnh phúc nhọc nhằn với Tiếng Việp lớp Một", Nhà giáo Phạm Toàn trình bày chi tiết có hai cách học để biết đọc biết viết tiếng Việt, đó là "đánh vần theo chữ" và "theo ngữ âm". Nhà giáo Phạm Toàn nhấn mạnh sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục" bị ồn ào chê trách về cách đánh vần ba chữ "c", "k" và "q" đều đọc là /cờ/, nhưng không gọi tên chung cho cả ba chữ là chữ "cờ". Nhà giáo Phạm Toàn giải thích đó là cách học theo đường lối ngữ âm học. Và qua phần diễn giải rất cụ thể về cách học theo ngữ âm trong bài viết, Nhà giáo Phạm Toàn tin rằng những ai ứng dụng theo hướng dẫn trong bài viết của ông thì dễ dàng dạy con em ở gia đình biết đọc biết viết nhanh và chắc chắn tiếng mẹ đẻ. Trong khi đó, Tiến sĩ Trần Văn Hải, một cựu giáo viên thuộc ngành tâm lý ngữ học, cho rằng cách đánh vần trong bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục" được biên soạn mang tính áp đặt và không đạt tiêu chuẩn, vì không đánh vần bằng âm. Từ Hoa Kỳ, Tiến sĩ Trần Văn Hải nói với RFA: "Ở Việt Nam hiện nay, những người này họ lầm lẫn giữa hai lãnh vực là tiếng nói và chữ viết: tiếng nói đi trước và chữ viết đi sau. Ngữ âm không phải là điều mới mẻ, mà từ trước đến nay thì lúc nào người ta cũng dựa vào cách phát âm của tiếng nói đặc thù của một dân tộc, rồi người ta tìm những ký hiệu (mẫu tự) để dùng làm biểu tượng cho các âm mà được phát ra từ tiếng nói đó để dạy cho trẻ em vừa nói và viết. Họ nói là đánh vần theo âm. Nhưng nói như vậy thì mẫu tự tiếng Việt dùng để làm gì?" Thầy giáo Chu Mộng Long, giảng viên trường Đại học Quy Nhơn, trình bày quan điểm của ông, qua trang facebook cá nhân, xoay quanh phản ánh của dư luận về bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục". Thầy giáo Chu Mộng Long khẳng định khẳng định về mặt khoa học thì cách đánh vần cả ba chữ "c', "k" và "q" đều đọc là /cờ/ không sai và sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục", việc phân biệt chữ cái và âm (vị), quy ước kết hợp chữ trong các phụ âm với âm đệm, âm đôi với âm cuối cũng hoàn toàn chuẩn xác. Mặc dù vậy, Thầy giáo Chu Mộng Long cho biết khi ông xem trang hướng dẫn cách đánh vần của sách giáo khoa này, thì ông "tá hỏa vì một số chỗ sai nghiêm trọng, phản khoa học". Một trưng dẫn với 3 chữ "r", "d" và "gi" cùng đọc là /dờ/, Thầy giáo Chu Mộng Long phân tích nếu dựa vào thực tiễn ngôn ngữ, có thể xem chữ "d" và chữ "gi" cùng âm đọc thì chấp nhận được, nhưng nhập phụ âm "r" (âm xát-rung) vào đó để đọc cùng âm "dờ" thì không được. Thầy giáo Chu Mộng Long nhận định đánh vần theo ngữ âm học chưa hẳn giúp ích gì cho việc viết đúng quy định chính tả, nếu không khéo còn đẩy trẻ em từ chỗ đơn giản rơi vào phức tạp. Chúng tôi xin được trích nguyên văn ông nhận xét: "Sách tiếng Việt lớp Một công nghệ và hiện hành đã lựa chọn nửa nạc nửa mỡ (nửa tuyến tính nửa phi tuyến tính) dẫn đến lú lẫn hơn là phục vụ cho mục đích nhận diện chữ viết để viết đúng chính tả. Kể cả việc bắt trẻ em trình độ lớp Một phải nhận diện một cách khoa học vấn đề âm vị học cũng không cần thiết." Phải thống nhất cách dạy chữ Quốc ngữTrả lời câu hỏi của RFA về ngành giáo dục có quyết định như thế nào trước phản ứng của dư luận về bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục", một cán bộ thuộc phòng giáo dục ở Cần Thơ, không muốn nêu tên, cho biết năm học 2018-2019, đồng bằng Sông Cửu Long có 5 tỉnh áp dụng thực nghiệm chương trình sách giáo khoa này: Ở đồng bằng Sông Cửu Long thì mới có Cần Thơ làm thí điểm. Chương trình này thì phần Tiếng Việt cũng hơi khó cho phụ huynh. Phải chờ đến giữa học kỳ hay cuối học kỳ thì mới có đánh giá chính xác được. Khi đó mới sơ kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh từ từ "Ở đồng bằng Sông Cửu Long thì mới có Cần Thơ làm thí điểm. Chương trình này thì phần Tiếng Việt cũng hơi khó cho phụ huynh. Phải chờ đến giữa học kỳ hay cuối học kỳ thì mới có đánh giá chính xác được. Khi đó mới sơ kết, rút kinh nghiệm và điều chỉnh từ từ." Vị cán bộ trong ngành giáo dục cho biết thêm hiện Bộ Giáo Dục có nhiều bộ sách giáo khoa khác nhau và bắt đầu năm học 2019-2020 thì: "Chương trình sẽ khoán về cho các trường, tự mỗi trường lựa chọn và thống nhất với phụ huynh. Tại vì tùy theo vùng, miền. Nếu thống nhất chương trình theo đại trà thì nhiều khi các trường ở thành phố chê là nhẹ, còn ở vùng sâu thì kêu là nặng. Cả nước Việt Nam sẽ áp dụng quy định này từ lớp 1." Riêng về bộ sách "Tiếng Việt lớp 1 Công nghệ Giáo dục", Luật sư Lê Văn Luân, vào ngày 27 tháng 8, phổ biến một thư kiến nghị trên mạng xã hội, kêu gọi cộng đồng ký tên gửi đến Quốc Hội và các cơ quan Nhà nước Việt Nam đề nghị các cơ quan có thẩm quyền cho dừng ngay tức khắc việc giáo dục đối với kiểu loại chữ viết trong bộ sách này. Luật sư Lê Văn Luân cho rằng việc giảng dạy khác nhau đối với tiếng Việt là đang xâm phạm nghiêm trọng vào Hiến pháp, khi phá vỡ tính thống nhất và đơn nhất của chữ Quốc ngữ. This posting includes an audio/video/photo media file: Download Now | ||||||
Posted: 04 Sep 2018 03:17 PM PDT RFATàu chiến của Hải quân Hoàng gia Anh đã cập cảng Sài Gòn vào sáng ngày 3/9 trong hoạt động nhằm khẳng định cam kết của Anh đối với khu vực châu Á Thái Bình Dương. Truyền thông trong nước hôm 3/9 cho hay tàu đổ bộ HMS Albion cùng 500 binh sĩ với chỉ huy là Đại tá Tim Neild đã đến Sài Gòn trong chuyến thăm kéo dài 4 ngày. Nói với báo giới khi đến Sài Gòn, Đại tá Tim Neild cho biết chuyến thăm lần này của tàu nằm trong cam kết của Anh nhằm xây dựng hòa bình, an ninh và thịnh vượng tại khu vực. Vào tháng 5 năm nay, tàu HMS Albion và tàu HMS Sutherland của Hải quân Hoàng gia Anh cũng đã đi vào Biển Đông, nơi đang có tranh chấp về chủ quyền giữa Trung Quốc và một số nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Hồi tháng 7 vừa qua, Bộ trưởng Quốc phòng Anh Gavin Williamson nói tại Australia rằng Anh và Australia đang xem xét triển khai tàu sân bay HMS Queen Elizabeth của Anh đến Biển Đông để đối phó với những thách thức từ Trung Quốc. | ||||||
RIMPAC 2018: Trung Quốc nổi bật thành đối tượng cần triệt hạ Posted: 04 Sep 2018 03:16 PM PDT Mai VânRIMPAC 2018, các tàu Châu Á: Ấn Độ, Nhật Bản, Philippines...trên đường đến Hawaii.@ Singapore Ministry of Defence. Ngày 31/08/2018 vừa qua, trên Biển Đông, khu trục hạm chở trực thăng Kaga, chiến hạm lớn nhất của Nhật Bản, đã tiến hành một cuộc tập trận chung với tàu sân bay Mỹ USS Ronald Reagan. Khi loan tin về sự kiện này, tờ báo Nhật Bản Japan Times ngày 01/09 cho rằng đây là dấu hiệu mới nhất về hoạt động ngày càng gia tăng của Hải Quân Nhật tại vùng Biển Đông, nơi Bắc Kinh đã xây dựng một loạt tiền đồn, gọi là để phòng thủ, nhưng đã bị cả Tokyo lẫn Washington chỉ trích, xem đấy là cơ sở để Trung Quốc hạn chế quyền tự do đi lại trong một vùng biển quốc tế. Dù thông báo của Hải Quân Mỹ-Nhật về cuộc tập trận không hề nhắc đến mục tiêu đề phòng Trung Quốc, nhưng Bắc Kinh đã tỏ thái độ bực tức. Tờ Japan Times đã trích dẫn một tuyên bố của phát ngôn viên bộ Quốc phòng Trung Quốc, tố cáo Mỹ "cường điệu" vấn đề Biển Đông, trong lúc hãng tin Mỹ AP cũng đề cập đến sự kiện Bắc Kinh thường xuyên lên án các hoạt động của Quân Đội Nhật Bản, nhất là các cuộc tập trận chung với Mỹ, trên các vùng biển mà Trung Quốc cho là của họ, trong đó có Biển Đông. Trong một bài phân tích công bố trong số tháng 9, 2018, nguyệt san Nhật The Diplomat, đã nêu bật yếu tố có thể nói là "chống" Trung Quốc trong các cuôc tập trận Mỹ-Nhật, vừa được biểu thị một cách rất cụ thể trong cuộc tập trận đa quốc gia RIMPAC do Mỹ chủ trương. Được tổ chức 2 năm một lần, đợt tập trận RIMPAC 2018 vừa diễn ra ngoài khơi Hawaii và California vào mùa hè này, với sự kiện được bàn tán rộng rãi là Trung Quốc lần này không được mời tham gia. Thế nhưng trong bài phân tích dài mang tựa đề "Bóng dáng Trung Quốc tại RIMPAC - The Specter of China at RIMPAC", nhà nghiên cứu Mỹ Steven Stashwick đã ghi nhận sự kiện khá mâu thuẫn: "Dù vắng mặt, nhưng bóng dáng Trung Quốc lại được thấy trong rất nhiều nội dung của cuộc thao diễn". RIMPAC 2018 và cuộc đua tranh Mỹ-Trung ở vùng Ấn Độ Thái Bình Dương Bài phân tích trước hết nêu bật lý do sâu xa của việc Trung Quốc bị Mỹ gạt ra khỏi cuộc tập trận RIMPAC 2018. Sau khi tham gia cuộc tập trận đa phương rông lớn này vào những năm 2014 và 2016, thì năm nay 2018; Trung Quốc đã không được Mỹ mời tham gia. Lý do chính thức đưa ra là hành vi của Trung Quốc quân sự hóa Biển Đông. Vào tháng 5/2018, sau khi có tin về việc Trung Quốc triển khai hệ thống tên lửa chống hạm và phòng không trên các đảo nhân tạo ở Trường Sa, Lầu Năm Góc đã hủy bỏ lời mời Trung Quốc tham gia RIMPAC. Một phát ngôn viên giải thích là hành động của Trung Quốc không phù hợp với mục tiêu của cuộc thao diễn và Bắc Kinh đã gây ra căng thẳng… Việc xây dụng và triển khai (lực lượng) ở Trường Sa đã vi phạm cam kết của ông Tập Cận Bình năm 2015 tại cuộc gặp thượng đỉnh Nhà Trắng là không quân sự hóa các đảo. Tuy nhiên, theo tác giả bài phân tích trên tờ The Diplomat, những lần Trung Quốc hiện diện trước đây đều luôn luôn gây nên tình trạng căng thẳng xuất phát từ cảm nhận theo đó Trung Quốc là mối đe dọa, và đa số các phương tiện tiên tiến được phô bày ra nhân các cuộc tập trận RIMPAC đều nhắm mục tiêu khống chế mối đe dọa đó. Cuộc tập trận RIMPAC năm nay cũng vậy, cho dù Trung Quốc không hiện diện chính thức, mà chỉ cho một chiếc tàu do thám áp sát vùng thao diễn để thu thập thông tin. Đối với The Diplomat, kết quả là Bắc Kinh ít ra là đã nhận được một thông điệp không nhầm lẫn. Mỹ cùng với các đối tác đối tác và đồng minh tiếp tục cải tiến khả năng làm tiêu hao lực lượng Trung Quốc nếu xẩy ra một cuộc tranh chấp ở Tây Thái Bình Dương. RIMPAC được cho là cuộc tập trận quốc tế lớn nhất thế giới, theo quân đội Mỹ thì năm nay, bắt đầu từ cuối tháng Sáu đến đầu tháng 8, với sự tham gia của 25 quốc gia, 46 tàu mặt nước, 5 tàu ngầm, 17 đơn vị trên bộ, hơn 200 máy bay, 25.000 người. Israel, Sri Lanka và Việt Nam là những nước lần đầu tiên tham gia. Theo đánh giá của nhà nghiên cứu Steven Stashwick, sự vắng mặt của Trung Quốc, lại càng nêu bật ý nghĩa của sự hiện diện của Sri Lanka và Việt Nam như những nước mới tham gia, và cuộc tranh đua với Mỹ nhằm tìm thêm đối tác và ảnh hưởng ở vùng Ấn Độ Thái Bình Dương. Sri Lanka chỉ có 25 lính thủy quân lục chiến tham gia cuộc tập trận, một con số quả là khiêm tốn, nhưng ý nghĩa ngoại giao lại khác: Vào khoảng cuối năm ngoái 2017, Sri Lanka bị buộc phải nhượng cảng Hambantota cho Trung Quốc trong thời hạn 99 năm để đền bù cho các chủ nơ Trung Quốc, đã bỏ vốn cải thiện hạ tầng cơ sở của cảng nước sâu này. Tuy Hambantota không được đặc biệt thiết kê như là một cảng quân sự, nhưng mối quan ngại là Hải Quân Trung Quốc có một cơ sở ngay trung tâm vùng Ấn Độ Dương. Việt Nam thì đã nỗ lực cân bằng sự lệ thuộc Trung Quốc về kinh tế, và đang cố hạn chế những sức ép kinh tế, quân sự của người láng giềng to lớn. Trung Quốc ngày càng hung hăng trước đà hợp tác ngày mở rông của Hà Nội về phía Mỹ. Việt Nam tham gia RIMPAC chỉ với 8 sĩ quan, một số lượng thật ít ỏi, nhưng tác giả bài viết nhận thấy điều đó tuy thế vẫn rất có ý nghĩa, cho thấy là Việt Nam đang thắt chặt quan hệ với Mỹ cho dù vẫn là một quốc gia vốn giữ quan điểm không liên kết và tránh bị vướng mắc trong những hiệp định chính thức. Nội dung diễn tập nổi bật: Đánh chìm tàu địch (tức là Trung Quốc) Theo chuyên gia Stashwick, có lẽ sự kiện mang ý nghĩa chiến lược cao nhất trong cuộc tập trận RIMPAC vừa qua là bài tập theo đó lần đầu tiên các đơn vị của Lục Quân Mỹ và Nhật Bản phối hợp với nhau để đánh chìm một con tàu đang ở ngoài khơi, sử dụng tên lửa chống hạm, và các dàn pháo di động bắn đi từ đất liền. Khả năng mở rộng chu vi vùng biển được bảo vệ dọc theo bờ biển rất thích hợp với tình hình Biển Đông và vùng Tây Thái Bình Dương, nơi mà những đơn vị trên đất liền, được trang bị bằng hệ thống chống hạm di động, có thể trên mặt lý thuyết biến các quần đảo thành những bức tường lửa chống tàu chiến đối phương qua lại. Khi đô đốc Harry Harris, cựu tư lệnh Lực Lượng Thái Bình Dương của Mỹ thông báo bài tập trong phát biểu vào năm ngoái, ông nói là nội dung này được thiết kế theo "kịch bản bảo vệ quần đảo" mà Mỹ và Nhật Bản phải đối phó ở Tây Thái Bình Dương. Dù không bị nêu đích danh là đối tượng, nhưng chỉ có Trung Quốc mới có thể khiến Mỹ và Nhật cùng hợp lực hành động, nhằm ngăn chặn tàu chiến và chiến đấu cơ Trung Quốc ở vùng phía sau chuỗi đảo Ryukyu trải dài từ đảo chính của Nhật đến Đài Loan. Cộng với hỏa lực trên bờ, chiếc tàu còn bị tấn công bằng tên lửa hành trình chống hạm Harpoon, bắn đi từ tàu ngầm. Đây cũng là vụ bắn đầu tiên từ 20 năm nay, cho thấy là Hải Quân Mỹ cũng đang tìm cách nâng cao khả năng diệt hạm, trang bị thêm cho tàu ngầm của mình hệ thống chống hạm tầm xa bên cạnh những ngư lôi hiện có. RIMPAC: Trung Quốc là đối tượng chứ không phải là đối tác Ngoài ra, cuộc tập trận RIMPAC còn có một số nội dung khác không ngoạn mục lắm, nhưng có giá trị then chốt trong việc hỗ trợ các chiến dịch trong các kịch bản tranh chấp lớn ở Thái Bình Dương. Một ví dụ là việc Lục Quân và Thủy Quân Lục Chiến Mỹ thử nghiệm việc chuyển hóa ngay ở chiến trường các loại xăng thương mại bình thường thành loại xăng cao cấp sử dụng cho máy bay. Hai binh chủng này đã tiến hành việc thử nghiệm trên tinh thần là làm sao thực hiện được việc này tại các địa bàn xa xôi hẻo lánh như các đảo ở Biển Đông và vùng Tây Thái Bình Dương. Khả năng chuyển hóa xăng như nói trên cho phép phi cơ của Lục Quân hay Thủy Quân Lục Chiến Mỹ sử dụng những nguồn nhiên liệu thay thế, không bị lệ thuộc vào hậu cần của quân đội Mỹ và hệ thống tiếp liệu có thể bị cắt đứt bất cứ lúc nào trong một cuộc tranh chấp. Nhiều nội dung khác, phối hợp lực lượng của nhiều nước khác nhau cũng được tiến hành, trong đó có việc hợp đồng tác chiến giữa tàu ngầm phối hợp với các lực lượng biệt kích, tích hợp các chiến dịch tuần tra và giám sát không phận, đổ bộ lực lượng thủy quân lục chiến, và gỡ mìn. Tác giả bài phân tích trên tờ The Diplomat đi đến kết luận : Trong môi trường địa chính trị hiện nay, với các tài liệu chiến lược cấp cao của Hoa Kỳ xem Trung Quốc và Nga là các đối thủ cạnh tranh chủ chốt, hầu hết các bài tập và phương tiện sử dung tại RIMPAC đều nhằm hỗ trợ các kịch bản theo đó Trung Quốc là đối tượng chứ không phải là đối tác. | ||||||
VNTB - Giăng Bẫy nợ: bản sắc của thực dân Trung Quốc Posted: 04 Sep 2018 03:13 PM PDT Phương Thảo (VNTB) Thứ ba tuần trước tại Bắc Kinh, Thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad tuyên bố rằng Malaysia đã hủy bỏ hai dự án trị giá hàng tỷ đô la vì Malaysia không thể trả nợ. Tuy nhiên theo John Pomfret, nhà lãnh đạo người Malaysia 93 tuổi này đã nêu ra một điểm quan trọng đó là liệu Trung Quốc có trở thành một kiểu quyền lực đế quốc mới không. Sụp bẫy nợ Montenegro lấy tiền của Trung Quốc, lao động, vật liệu xây dựng và kỹ thuật để xây dựng một đường cao tốc từ cảng trên Biển Adriatic về phía Serbia. Nhưng bây giờ với đường cao tốc được xây dựng chưa được phân nửa, quốc gia Balkan nhỏ bé phải đối mặt với viễn cảnh nợ phát sinh hơn 80% tổng sản phẩm quốc nội. Quỹ tiền tệ quốc tế IMF cho biết Montenegro không đủ tiền để hoàn thành dự án. Sri Lanka rất mắc nợ Trung Quốc sau khi phê chuẩn một chuỗi các dự án đầy tham vọng đến nỗi năm ngoái đã buộc phải cho một công ty Trung Quốc thuê một cảng ở Hambantota trong 99 năm. Mỹ và Nhật Bản quan ngại rằng Trung Quốc có kế hoạch sử dụng cảng này làm tiền đồn hải quân đã khiến họ tăng viện trợ quân sự cho quốc đảo này. Hôm thứ Tư, Bộ trưởng Quốc phòng Sri Lanka tuyên bố sẽ không cho phép Trung Quốc sử dụng cảng vì mục đích quân sự.
Pakistan đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng nợ toàn diện. Cho đến nay, một số dự án trị giá 27 tỷ đô la đang được xây dựng trong một phần của kế hoạch 62 tỷ đô la để hồi sinh nền kinh tế Pakistan. Nhưng, cũng như với Montenegro, IMF đã cảnh báo Pakistan rằng họ không đủ khả năng hoàn trả các khoản nợ Trung Quốc - ít nhất là 10 tỷ đô la Mỹ. Chính phủ mới của Pakistan hiện đang xem xét yêu cầu IMF cho một gói cứu trợ chỉ vài ngày sau khi thủ tướng mới của Pakistan Imran Khan thắng cử và được người bạn Trung Quốc "thân thiết" của Pakistan bồi thêm 2 tỷ USD nợ vào tháng trước. Một tuyến đường sắt xuyên Lào do Trung Quốc xây dựng có giá trị bằng một nửa GDP của quốc gia này. Trong một báo cáo của hai nhà nghiên cứu từ Trường Kennedy của Harvard có dẫn lời cựu ngoại trưởng Úc Gareth Evans rằng Lào và Campuchia, mỗi quốc gia đã vay hơn 5 tỷ USD, hiện nay là "hoàn toàn là các công ty con của Trung Quốc." Hình thành "Chinatown" Ở cả Malaysia và Pakistan, các công ty Trung Quốc muốn xây dựng các cộng đồng chỉ dành riêng cho người Trung Quốc, một sự trở lại không lường trước được đối với những ngày xưa tồi tệ của các tô giới ở Thượng Hải, Quảng Châu và Thiên Tân khi người phương Tây làm bề trên người Trung Quốc. Ở đầu bán đảo Malaysia, Forest City là một đô thị được xây dựng trên bốn hòn đảo nhân tạo. Nơi có đủ chỗ cho 700.000 người. Được bán với giá quá cao đối với người Malaysia trung bình, dự án phát triển được nhắm vào người Trung Quốc đại lục. Dự án này thậm chí còn được một công ty Trung Quốcthiết kế. Nhưng điều đó cũng đe dọa một phản ứng dữ dội và đã gây ra những lo ngại ở Malaysia về việc làm xáo trộn sự cân bằng sắc tộc tinh tế giữa người Mã Lai, Ấn Độ và Trung Quốc.
Pakistan, cũng được cho là nơi có một cộng đồng Trung Quốc, một cộng đồng 500.000 người, gần cảng Gwadar, mà Trung Quốc đang xây dựng như một phần của dự án "chuỗi ngọc trai" để xây dựng các hải cảng, có thể để sử dụng cho hải quân trên đường vượt Ấn Độ Dương tới châu Phi. Ngoài ra, các công ty Trung Quốc ở Pakistan với lo lắng về khủng bố và bắt cóc đã sử dụng hàng ngàn người từ lực lượng an ninh Trung Quốc dường như hoạt động trái luật Pakistan. Pomfret cho rằng "Người Trung Quốc đã gọi hệ thống của họ là 'chủ nghĩa xã hội với đặc điểm Trung Quốc' nhưng có lẽ 'chủ nghĩa thực dân với bản sắc Trung Hoa' sẽ có ý nghĩa hơn." Viễn cảnh Khủng hoảng nợ Trung Quốc bùng nổ ở Việt nam? Ngoài Malaysia, một số quốc gia khác đã ngừng hoặc thu nhỏ các dự án của Trung Quốc. Myanmar đang cố gắng đàm phán lại một dự án cảng trị giá 10 tỷ đô la; Nepal muốn ngừng xây dựng hai đập thủy điện của Trung Quốc. Các quốc gia khác đang nợ Trung Quốc đầm đìa đến mức họ chẳng nói gì, nhưng mọi thứ đã đến gần một điểm mà các nhà phân tích tin rằng khủng hoảng nợ gần như không thể tránh khỏi một khi Trung Quốc tìm cách làm cho đối tác phá sản và rồi buộc con nợ phải cúi mình nhượng bộ. Các khu phố tàu ở Việt Nam dù chưa đến mức lộ liễu chỉ dành cho người Trung Quốc như ở Malaysia hay Pakistan, nhưng ở các dự án do Trung quốc đầu tư có sự ưu tiên cho công nhân người Trung quốc lên đến hàng ngàn người thì những khu phố tàu đã hình thành tự phát. Cùng với tốc độ người Trung Quốc núp bóng người Việt bỏ tiền ra mua nhà, đầu tư bất động sản, các công ty du lịch dành cho khách Trung quốc của người Việt dần bị người Trung quốc thâu tóm thì sẽ tới lúc người Trung Quốc bung tiền ra để xây dựng các khu tô giới dành riêng cho người từ Trung Hoa Đại Lục.
Việt Nam hiện nợ Trung Quốc bao nhiêu tiền vẫn là một con số bí ẩn. Có số liệu ước tính cho rằng Việt nam vay nợ 6 tỷ đô la từ Trung Quốc. Vào thời điểm năm 2013, số tiền vay từ Trung Quốc để đầu tư vào phân bón, điện và nhiệt điện, tàu điện, đường sắt. Là 4,1 tỷ đô la. Chỉ lấy ví dụ từ dự án tàu điện Hà Đông – Cát Linh số tiền vay từ năm 2003 là 419 triệu đã đội lên thành 886 triệu đô la, tức tăng hơn 2 lần, thì có lẽ số tiền nợ Việt Nam nợ Trung Quốc sẽ có thể lên đến gấp hai lần con số 4,1 tỷ đô la. Chưa hết, với số tiền vay đó, Việt Nam phải trả lãi cho đàn anh với giá cắt cổ là khoảng 3%/năm, phí cam kết 0.5%, phí quản lý 0,5%. Gọi là cắt cổ vì lãi suất Việt Nam phải trả cho Đan Mạch 0%, 0,2% cho Tây Ban Nha, 0,6-1,2% cho Nhật, 1,04% cho Pháp, 0,75% cho Đức, 1,75% cho Ấn Độ... Còn với các tổ chức quốc tế khoảng 1,3-1,8%/năm và với thời hạn vay rất dài có thể tới 30 năm, thời gian ân hạn ít nhất là 5 năm. Với số nợ nước ngoài theo ước tính của Ngân hàng Thế giới vào năm 2016 là khoảng 86,9 tỷ đô la, Việt Nam đã không còn tiền để trả nợ mà phải đi vay để đảo nợ. Lãi suất cao, nợ chồng lên nợ như trong tình trạnh hiện nay, thì Việt Nam sẽ không tránh khỏi cảnh nhượng địa cho phương Bắc như các con nợ khác của Trung Quốc ở châu Á. | ||||||
Posted: 04 Sep 2018 03:10 PM PDT 05/09/2018Nguồn: Carl Bildt, "Why Marx Was Wrong", Project Syndicate, 09/05/2018. Biên dịch: Đậu Thế Hoàng | Biên tập: Lê Hồng Hiệp Dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Karl Marx đã làm cho nhiều người quan tâm tới các tác phẩm của ông, cùng với việc khánh thành bức tượng tại quê nhà của ông ở Trier, Đức. Tại lễ kỷ niệm chủ nghĩa Marx ở Bắc Kinh vào tuần trước, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình tuyên bố, "như ánh mặt trời ló rạng, học thuyết này đã soi sáng con đường cho nhân loại khám phá quy luật của lịch sử và tìm đường giải phóng chính mình." Ông còn tuyên bố rằng Marx "đã chỉ ra con đường lý thuyết khoa học để tiến tới một xã hội lý tưởng nơi mọi người được hưởng sự bình đẳng và tự do, không còn áp bức hay bóc lột." Do những điều ông Tập phát biểu là ở một nước Trung Quốc theo chủ nghĩa Marx, những người tham dự không còn lựa chọn nào khác ngoài việc đồng tình với chúng. Tuy nhiên, phát biểu tại Trier cùng ngày, Chủ tịch Uỷ ban châu Âu Jean-Claude Juncker cũng đưa ra nhận định riêng của mình khá hào phóng với Marx: "Ngày nay, ông bị gán cho những thứ mà ông không phải chịu trách nhiệm và cho những việc không phải do ông gây ra, bởi có nhiều quan điểm ông viết ra đã được biên soạn lại thành những điều đối nghịch." Ý nghĩa đằng sau câu nói này của Juncker chưa thực sự rõ ràng. Xét cho cùng, chủ nghĩa Marx gây ra đau khổ cho hàng chục triệu người vốn đã bị buộc phải sống dưới những chế độ tự ủng hộ chủ nghĩa Marx. Phần lớn trong thế kỷ 20, 40% nhân loại phải chịu cảnh đói ăn, lao động cưỡng bức, bị kiểm duyệt và các hình thức đàn áp khác dưới tay của những người tự xưng là các nhà Marxist. Trong phát biểu của mình, Juncker dường như muốn ám chỉ đến phản đề thường thấy: tội ác của những người cộng sản trong suốt thế kỷ 20 đều do người ta bóp méo tư tưởng của Marx, chứ bản thân ông không phải chịu trách nhiệm. Lập luận này có hợp lý không? Marx đã dành phần lớn cuộc đời mình để phân tích nền kinh tế chính trị phương Tây trong giai đoạn công nghiệp hoá vào giữa thế kỷ 19. Song, những ảnh hưởng lâu dài của ông liên quan tới những tư tưởng của ông về tương lai cũng như tác động của chúng đối với xã hội. Khi xem xét di sản của Marx, chúng ta không thể bỏ qua khía cạnh này. Marx coi tài sản tư hữu là căn nguyên của mọi tội lỗi trong các xã hội tư bản mới nổi trong thời đại của ông. Theo đó, ông tin rằng chỉ bằng cách bãi bỏ nó mới giải quyết được sự phân chia giai cấp trong xã hội và qua đó đảm bảo cho một tương lai hòa hợp của con người. Sau này, cộng sự của Marx là Friedrich Engels tuyên bố rằng dưới chế độ cộng sản, nhà nước sẽ không còn cần thiết nữa và "sẽ lụi tàn đi." Những lời khẳng định này không phải là suy đoán, mà đúng hơn là được đưa ra như các tuyên bố khoa học về viễn cảnh tương lai. Nhưng, tất nhiên những luận điểm đó đều là rác rưởi, và học thuyết về lịch sử của Marx – chủ nghĩa duy vật biện chứng – đã được chứng minh là sai lầm và nguy hiểm trong mọi khía cạnh thực tiễn. Nhà triết học lỗi lạc thế kỷ 20, Karl Popper, một trong những người phê bình Marx mạnh mẽ nhất, đã gọi Marx là "nhà tiên tri sai lầm." Và nếu cần thêm bằng chứng, thì đó là việc các quốc gia ủng hộ chủ nghĩa tư bản trong thế kỷ 20 đã trở thành những xã hội dân chủ, cởi mở và thịnh vượng. Ngược lại, những chế độ từ chối chủ nghĩa tư bản và đi theo chủ nghĩa Marx đều đã thất bại, và không phải do trùng hợp ngẫu nhiên hay là do những tín đồ của chủ nghĩa Marx hiểu lầm học thuyết của ông. Bãi bỏ chế độ tư hữu và thiết lập nền kinh tế nhà nước không chỉ cướp đi tinh thần kinh doanh, vốn rất cần cho việc thúc đẩy xã hội phát triển, mà thậm chí còn xoá bỏ quyền tự do của con người. Bởi chủ nghĩa Marx coi tất cả những mâu thuẫn trong xã hội là sản phẩm của đấu tranh giai cấp, điều sẽ biến mất khi quyền tư hữu tài sản không còn, nên sau khi xây dựng chủ nghĩa cộng sản thì sự bất đồng quan điểm không còn được cho phép. Theo mặc định, bất kỳ thách thức nào đối với chế độ mới đó đều được coi là tàn dư bất hợp pháp của chế độ áp bức trước đó. Do đó, những chế độ theo chủ nghĩa Marx trên thực tế đều là sự mở rộng mang tính logic của học thuyết Marx. Tất nhiên Juncker đã đúng khi cho rằng Marx, qua đời 34 năm trước Cách mạng Nga, không phải chịu trách nhiệm đối với những trại cải tạo lao động, nhưng các tư tưởngcủa Marx phải chịu trách nhiệm đối với chúng. Trong công trình nghiên cứu mang tính cột mốc có nhan đề Main Currents of Marxism (Những dòng chảy chính của chủ nghĩa Marx), gồm ba tập, nhà triết học Ba Lan Leszek Kolakowski, người đã trở thành một nhà phê bình hàng đầu về chủ nghĩa Marx sau một thời tuổi trẻ ủng hộ chủ nghĩa này, lưu ý rằng Marx gần như không quan tâm tới con người dù họ thực sự tồn tại. "Chủ nghĩa Marx rất ít hoặc không để ý tới thực tế là con người được sinh ra và chết đi, họ là đàn ông hay đàn bà, trẻ hay già, khoẻ mạnh hay ốm yếu." Cũng như vậy, "trong mắt ông, cái ác và sự đau khổ chẳng có ý nghĩa gì ngoại trừ là công cụ của giải phóng. Chúng chỉ là những thực tế xã hội thuần tuý, chứ không phải là một phần thiết yếu của điều kiện sống con người." Góc nhìn của Kolakowski giúp lý giải việc nhiều chế độ theo đuổi học thuyết mang tính tiên định và máy móc này của Marx buộc phải áp dụng chủ nghĩa toàn trị khi đối mặt với thực tế của một xã hội phức tạp. Họ không phải lúc nào cũng thành công, nhưng kết quả thì bao giờ cũng bi thảm. Về phần mình, Tập coi sự phát triển kinh tế của Trung Quốc trong vài thập niên qua là "minh chứng thép" cho giá trị tiếp tục của chủ nghĩa Marx. Song, thực tế lại là điều ngược lại. Nên nhớ rằng chính Trung Quốc thời cộng sản thuần tuý đã gây ra nạn đói và sự khủng bố trong phong trào "Đại nhảy vọt" và "Cách mạng Văn hoá." Thời điểm Mao ra quyết định tịch thu đất đai của nông dân và quốc hữu hóa các công ty của doanh nhân cũng là lúc các thảm kịch đã được dự báo trước. Kể từ đó Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) đã từ bỏ cách tiếp cận giáo điều này. Dưới thời người kế nhiệm Mao là Đặng Tiểu Bình, ĐCSTQ đã phát động chính sách "mở cửa" kinh tế. Sau năm 1978, Trung Quốc tiến hành khôi phục chế độ tư hữu và cho phép tư nhân thành lập doanh nghiệp, và kết quả thật sự ngoạn mục. Ngày nay, nếu sự phát triển của Trung Quốc bị kìm hãm bởi bất cứ thứ gì, thì đó là tàn dư của chủ nghĩa Marx vốn còn hiện hữu tại các doanh nghiệp nhà nước yếu kém và trong hoạt động đàn áp những người bất đồng chính kiến. Hệ thống độc đảng tập trung của Trung Quốc đơn giản là không tương thích với một xã hội đa dạng và hiện đại. Hai trăm năm sau ngày sinh của Marx, ngẫm nghĩ về di sản trí tuệ của Marx chắc chắn vẫn là một điều khôn ngoan. Tuy nhiên, chúng ta làm vậy không phải để kỷ niệm, tung hô, mà để phòng ngừa cho xã hội cởi mở của chúng ta khỏi những cám dỗ về chủ nghĩa toàn trị vốn đang ẩn náu trong các lý thuyết sai lệch của ông. Carl Bildt là ngoại trưởng Thụy Điển từ năm 2006 đến tháng 10 năm 2014, và là Thủ tướng trong giai đoạn 1991-1994, khi ông đàm phán cho việc Thụy Điển gia nhập EU. Là nhà ngoại giao quốc tế nổi tiếng, ông từng đảm trách chức vụ Đặc sứ của EU ở Nam Tư cũ, Đại diện cấp cao về vấn đề Bosnia và Herzegovina, Đặc sứ của Liên Hiệp Quốc ở khu vực Balkan, và là Đồng Chủ tịch của Hội nghị Hòa bình Dayton. Copyright: Project Syndicate 2018 5 0 1 6 | ||||||
Việt Nam mượn của Trung Quốc bao nhiêu? Posted: 03 Sep 2018 07:47 PM PDT | ||||||
HỘI LUẬN 2012 VỚI 3 ĐẠI TÁ VỀ ĐỐI TÁC TÁC CHIẾN CHIẾN LƯỢC CỦA QUÂN ĐỘI VIỆT NAM Posted: 03 Sep 2018 09:00 PM PDT Rút từ trong phần Tiểu luận của tập Bút ký-Tiểu luận-Điều tra: "VỊ XUYÊN & THẾ SỰ VIỆT-TRUNG" Tham gia trao đổi: Tháng 7/2012, một cuộc tao ngộ tình cờ tại nhà riêng đại tá Phạm Xuân Phương tại Nghĩa Tân, Cầu Giấy Hà Nội; Có mặt hôm đó có đại tá Quách Hải Lượng, một đại tá đề nghị không đưa tên và tôi nhà văn Phạm Viết Đào. ( Đại tá Quách Hải Lượng đã qua đời 10/2013). Tại cuộc gặp này 1 chủ đề được đưa ra bàn luận sôi nổi đó là: Đối tác tác chiến lược của quân đội Việt Nam trong giai đoạn sắp tới là ai ? Xin ghi lại nội dung của cuộc trao đổi. -Đại tá Phạm Xuân Phương, nguyên cán bộ Tổng Cục chính tri; Ông từng tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ; chiến trường Quảng Trị 1972 và tham gia hỏi cung tù binh Trung Quốc trong chiến tranh biên giới. Đại tá Phạm Xuân Phương là người giới thiệu Tướng Lê Duy Mật, *(nguyên Tham Mưu trưởng Quân khu 2, Quân khu 9, Chỉ huy trưởng Mặt trận Hà Tuyên) vào đảng... Đại tá Phạm Xuân Phương tháp tùng tướng 3 sao Pháp Bigeard thăm chiến trường Điện Biên 1984... -Một đại tá đề nghị không nêu tên, gần 70 tuổi quân, là con một đại thần triều Nguyễn. Ông từng tham gia làm báo tại chiến dịch Điện Biên Phủ, có mặt tại Sài Gòn tháng 4/1975, có mặt trong những ngày đầu khi Pol Pot đánh biên giới Tây Nam … Nhà văn Phạm Viết Đào: ( NVPVĐ) -Việc xác định đối tác tác chiến chiến lược là việc như Tôn Tử nói: biết địch biết ta trăm trận, trăm thắng...Nếu chúng ta không xác định được địch là ai để có chiến lược phòng thủ thì chúng ta sẽ bị bất ngờ. Trong giai đoạn hiện nay, các ông là những cựu chiến binh, bằng kinh nghiệm trận mạc của mình, trước tình hình kinh tế xã hội và quan hệ quốc tế hiện tại, theo các ông: Quân đội Việt Nam nên xây dựng chiến lược phòng thủ đất nước như thế nào ? Đại tá Phạm Xuân Phương: ( ĐTPXP) -Để hình thành nên một chiến lược phòng thủ quốc gia thì trước tiên chúng ta phải xác định: Đối tác tác chiến chiến lược của quân đội Việt Nam trong tương lai là ai? Về cái điểm này đáng tiếc là tôi rất không đủ thông tin nên khó nêu chủ kiến của mình… Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc nói chung các văn kiện công khai đề cập nhiều rồi… Có một điều tôi chưa rõ là trong tình hình thực tế này, quân đội ta phải xác định sắp tới đối tác tác chiến lược của chúng ta là ai đây để mà bố trí thế trận phòng thủ chiến lược? Hiện nay chúng tôi đã về hưu, điều này anh phải hỏi các vị đương nhiệm cấp quân khu, quân đoàn xem họ được phổ biến như thế nào? Nếu họ được phổ biến là A chứ không phải là B thì tôi chịu không thể đưa ra phương án của mình, sơ đồ tác chiến phòng thủ chiến lược, chiến thuật của mình… Tất nhiên, đây là vấn đề bí mật quốc phòng lớn, nhưng ít ra những người lãnh đạo quân đội cao cấp cũng phải có khái niệm như thế nào đây về vấn đề này ? Điều này tôi chưa thể trả lời câu hỏi của anh được… Theo tôi, muốn xây dựng được chiến lược phòng thủ tốt, trước tiên, chúng ta phải tổng kết thật tốt, đánh giá thật tốt những cuộc chiến tranh vừa qua. Có như thế chúng ta mới chuẩn bị sẵn sàng cho các cuộc chiến trong tương lai… NVPVĐ: -Đối với một nền quốc phòng thì vấn đề xác định chiến lược phòng thủ là vấn đề lớn; Đây không đơn giản để giải quyết vấn đề trang bị vũ khí, khí tài mà cả về vấn đề tư tưởng, tâm lý về tinh thần cảnh giác... Có xác định được đối tác tác chiến chiến lược trong tương lai, chúng ta mới có khả năng chuẩn bị sẵn sàng cho tất cả để tránh tình trạng như năm 1979, chúng ta bị ngờ cả về mặt tâm lý. Ở Cao Bằng đã xảy ra tình trạng: thấy xe tăng Trung Quốc vào, đồng bào ta chạy ra xem và bị ăn đạn… Đại tá P.X.P: -Trước hết tôi muốn nói một điều đáng tiếc: thái độ đối với những người đã đổ xương máu trong cuộc chiến tranh biên giới chống Trung Quốc xâm lược. Chúng tôi phải nói một cách thành thật, vì một lý do nào đó cuộc chiến tranh này đang là cuộc chiến tranh một thời gian dài bị lãng quên; lãng quên làm sao ? Kỷ niệm ngày mở chiến tranh và những thắng lợi kết thúc chiến tranh một thời gian gian dài chúng ta không nhắc tời, chúng ta có dám kỷ niệm và tưởng niệm đâu? Trong khi đó, cuộc chiến tranh Việt-Mỹ ngày 30-4 được đánh dấu bằng một quốc lễ… Trong trận Điện Biên Phủ, Bigeard đeo lon thiếu tá, dẫn 1 tiểu đoàn lính nhảy dù xuống Nậm Rốm; Lúc đó Phạm Xuân Phương là đại đội trưởng thuộc trung đoàn 57, sư 304 đã đấu súng với tiểu đoàn nhảy dù của Bigeard... Đây là cuộc tao ngộ 1984 sau 30 năm được báo Pháp đưa... Cuộc chiến tranh biên giới phía bắc về quy mô chiến tranh, thắng lợi cũng như thiệt hại cũng rất lớn. Vì một lý do nào đó, chúng ta chưa dám mạnh dạn tôn vinh một cách xứng đáng cuộc chiến tranh này. Kỷ niệm không kỷ niệm, tổng kết cũng không tổng kết. Trung Quốc là một đối tượng tác chiến mới của chúng ta qua cuộc chiến tranh này… Sách giáo khoa, sách lịch sử có cuốn nào đề cập tới cuộc chiến tranh này đâu? Con em chúng ta bây giờ nhiều em không biết… Vấn đề cuối cùng đó là, vấn đề giải quyết hậu quả của cuộc chiến tranh này như thế nào? Khi mà âm mưu bành trướng bá quyền Đại Hán vẫn tiếp tục diễn ra dưới các hình thái mới; Trung Quốc đang tiến hành tổng lực các hành động: đe đoạ chúng ta ở Biển Đông, gây hấn chúng ta cả về kinh tế, xâm nhập vừa phá hoại, khống chế về kinh tế về tâm lý lôi kéo, mua chuộc, cả trên lĩnh vực văn hoá… Khi Trung Quốc xây dựng lại các mối quan hệ với ta, tôn chúng ta thế nọ, tôn chúng ta thế kia .v.v. nhưng về bản chất âm mưu bá quyền nước lớn của Trung Quốc họ chưa từ bỏ… Tôi mạnh dạn gọi đây là cuộc chiến tranh kiểu mới mà Trung Quốc đang áp dụng với Việt Nam? Nếu không nhận thức được điều này thì thật sự là sự mất cảnh giác ghê gớm. Trung ương chủ trương tranh thủ hoà bình xây đựng đất nước hoàn toàn đúng; tranh thủ Trung Quốc hoàn toàn đúng; bán anh em xa mua láng giềng gần, trong chừng mực nào đó ta phải tin; Phải có mối quan hệ, phải giao thương, phải buôn bán, phải để Trung Quốc đầu tư vào… Bất cứ nước nào cũng đều phải làm thế ! Đại tá Quách Hải Lượng: (ĐTQHL) Đại tá Phạm Xuân Phương và Đại tá Quách Hải Lượng ( ảnh Phạm Viết Đào chụp tại cuộc trao đổi) -Khi nói đến đối tác tác chiến lược của chúng ta thì phải nói rằng: Ai xâm lược mình? Ai là kẻ xâm lược mình thì bây giờ người ta chưa thể nói ra cụ thể…Trong thuật ngữ quân sự thì người ta hay sử dụng khái niệm: đối tác tác chiến tiềm ẩn, không nói tên... Như thế cũng khoa học thôi, không phải né tránh; Chỉ có thể gọi họ là kẻ thù khi họ nổ súng đánh ta, còn trước đó chỉ là tiềm ẩn. Vậy tiềm ẩn là ai, điều này ta phải có sự chuẩn bị. Vấn đề này, trong chiến lược phòng thủ của mỗi nước đều phải có. Vấn đề này đối với ta tôi tin cũng có chỉ có điều không cho biết phổ biến. Thế thôi ! Một Đại tá đề nghị không nêu tên: Trung Quốc đang thực thi chiến lượckhông cần đánh mà thắng ?! Một kỷ niệm nhớ đời của ông: Ông tận mắt chứng kiến trận một Trung đoàn anh hùng của Pol Pot, vào năm 1978, dưới sự chỉ huy của cố vấn Trung Quốc đã bao vây, dồn 1 sư đoàn quân ta, cũng là một sư anh hùng vào một chiếc cầu độc mộc để tiêu diệt... Trận đánh kéo dài từ 10 giờ trưa hôm nay đến 10 giờ trưa hôm sau; trong trận đánh này: 800 bộ đội của ta đã ngã xuống tại chỗ, mặc dù quân ta có xe tăng, có pháo binh, có trực thăng hỏa lực hơn hẳn quân Pol Pot... Trận đó quân ta bị lính Pol Pot dùng kế hỏa công, giống như trận Gia Cát Lượng thời Tam Quốc lừa quân Tào ở tại Gò Bác Vọng để đốt, bắn, giết; Quân Pol Pot rải hoá chất để đốt rừng, ta không dự kiến được tình huống đó... Sau trận này cả quân khu và 2 quân đoàn của ta bị kỷ luật vì thua trận... Đại tá: -Đối tác tác chiến lược là một loại bài toán mà ngành quân sự thường làm giống như một thứ bài tập của học sinh phổ thông...Xác định đối tác tác chiến lược, tiềm ẩn ư ? Còn gì nữa mà phải xác định đối tượng tác chiến. Xác định kẻ thù của chúng ta là ai, ở đâu, để làm gì khi mà họ đã vào ở chúng với chúng ta từ lâu rồi? Còn gì là tiềm ẩn nữa, họ đã vào sâu trong đất ta, họ có mặt khắp nơi từ Tây Nguyên đến Cát Bà, Vũng Rô, Cam Ranh; từ Móng Cái đến Bình Phước, Tây Nam Bộ, Hà Tĩnh...Điều này lãnh đạo biết, dân biết vì các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin công khai, họ có ẩn đâu, ra ngõ là gặp họ ngay... Vào quãng năm 1967-1968 gì đó, tôi được mời dự một Đại hội anh hùng chiến sĩ thi đua được tổ chức tại vùng giải phóng ở miền nam. Tại đây, tôi được tướng Trần Độ, Trần Văn Trà giao cho ông tiếp xúc với một chiến sĩ thi đua đặc biệt, anh ta là người Trung Quốc... Anh ta là người không cha, không mẹ, được ông Mao cho gom từ lúc lên 7 tuổi và nuôi, dạy với một chế độ đặc biệt; thành ra anh ta coi Mao Trạch Đông còn hơn cả cha mình... Anh ta được đưa sang Cămpuchia, sau đó thâm nhập vào miền Nam để tham gia kháng chiến như một chí nguyện quân...Tôi có hỏi: Khi Việt Nam thắng lợi rồi, đồng chí sẽ đi đâu? Anh ta đã trả lời: Sẽ đi làm cách mạng thế giới... Sau này, tôi đã báo cáo chuyện này lên trên nhưng nhiều người không tin. Trên các nẻo đường Trường Sơn, ngay từ khi đang kháng chiến chống Mỹ, tôi đã gặp rất nhiều thanh niên Trung Quốc tình nguyện tham gia cuộc chiến; họ rất chu đáo, giao việc gì làm việc đến nơi đến chốn và rất đáng tin cậy... Người Trung Quốc đã có kế hoạch, đã lập trình để thâm nhập vào đất nước ta rất lâu rồi, không phải bây giờ theo các hợp đồng kinh tế, các dự án liên doanh, qua các phi vụ buôn bán qua con đường tiểu ngạch... Chúng ta là nước có lượng cafe xuất khẩu đứng thứ 2 thế giới, thế mà cafe robusta của ta các xí nghiệp thu mua, chế biến trong nước đang gặp phải một đối tác cạnh tranh rất lợi hại đó là thương lái Trung Quốc... Thương lái Trung Quốc bỏ tiền mua ào ạt, vì họ trả giá cao hơn ta...Cũng chính những người nông dân của ta đứng ra thu gom, đóng bao cho họ. Họ mua cafe khi còn đang chín trên cây, sau đấy chở về Trung Quốc qua con đường tiểu ngạch... Cá họ mua, tôm cua họ mua, dừa họ mua, chè, gạo, cao su, ca kao... cái gì cũng mua, họ xuất hiện ở khắp nơi...Khi thì họ đứng tên công khai, khi thì họ núp bóng pháp nhân của người Việt, lấy vợ Việt để hợp pháp hóa... Thương lái Trung Quốc không chỉ mua chè, họ còn mua cả những gỗ cây chè, nhiều cây chè hàng trăm tuổi đã bị đốn hạ bán cho thương lái Trung Quốc... Trên thế giới có 3 nước được coi là quê hương của chè: Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam...Thế nhưng thương lái Trung Quốc còn tìm mua những gỗ cây chè với giá cao như mua gỗ lim. Người Trung Quốc rất thích nằm những cái giường làm bằng gỗ cây chè...Loại cây chè to bằng 2 người ôm, hình như chỉ ở Việt Nam mới có.Than ôi, những rừng chè kiểu đó hình như đang bị đốn hạ gần hết để bán cho thương lái Trung Quốc...Rồi cả gỗ sưa nữa, họ đang lùng mua để làm gì chỉ có họ biết... Cách mua bán của Trung Quốc đã để lại biết bao thảm họa: hàng triệu quả dừa ở Bến Tre thả trôi sông vì không tiêu thụ được; Mua rất đắt sau dừng lại...Mua hàng rồi tìm cách diệt tận gốc mặt hàng đó... Về chính trị thì chúng ta đã rước về 16 chữ vàng, là cả một điều nhục nhã, không ra cái gì...Anh biết đấy: Khi Việt Nam sắp có cuộc họp gì quan trọng, lập tức cán bộ cao cấp của họ sang hết thăm dò, gợi ý, gây áp lực... Năm 1950 tôi đã đứng chân ở dưới Hữu nghị quan, đứng dưới bức tường vì bên này bức tường là đất mình...Còn bây giờ ??? Tôi đã đi suốt chiều dài đất nước trong 3 cuộc chiến tranh, rừng của ta đẹp lắ, nhưng bây giờ đâu còn rừng? Ta bất lực đến thế ư ? Tình thế đất nước đã như thế này rồi thì việc gì người ta phải đưa quân sang cho nó lích kích? Họ cứ giữ tình thế như thế này: Của cải, hàng hóa, tài nguyên, khoáng sản của ta thì họ ngang nhiên mua tranh, bán cướp. Còn hàng của họ tống sang ta thì thịt gà thối, chân gà thối, thịt lợn thối, đồ may mặc, đồ chơi trẻ em, sữa, bánh kẹo, hoa quả rau đậu đều nhiễm độc; Thuốc của nó là không hiệu nghiệm thế mà các thầy thuốc cứ tràn sang... Hàng hóa Trung Quốc tràn sang ta phần lớn đều qua con đường tiểu ngạch, thực chất là buôn lậu, trốn thuế, chất lượng không được kiểm định; chỗ nào cũng có hàng Trung Quốc, ta không làm cách nào bịt nổi ư... Đây có lẽ là một chiến lược buôn bán có chủ đích của họ. Bởi đây là cách để họ có thể lo lót các cơ quan chức năng ít tiền mãi lộ, tiền làm luật và nếu không qua cách này, quan chức, bộ máy công quyền Việt Nam nhận tiền của thương lái Trung Quốc cũng cảm thấy áy náy...Không biết loại đồng tiền kinh hãi kiểu này đã len lỏi tới chỗ nào trong bộ máy công quyền của ta... Tại Sài Gòn người ta đã thấy hàng trăm người Trung Quốc mỗi sáng dậy, cũng lại làm thủ tục chào cờ Việt Nam nghiêm chỉnh như dân ta...Tôi hiểu người dân lao động Trung Quốc, vì tôi đã sang du học bên đó; thời tôi đi học do nghèo nên cùng tham gia lao động khốn khổ để kiếm thêm tiền...Tôi thấy người lao động Trung Quốc hết sức khổ và hết sức đáng yêu, nhưng tôi không thể chấp nhận cái trò bẩn thỉu của họ... Bây giờ văn hóa dân tộc chúng ta còn gì ? Phim Trung Quốc suốt ngày, tất nhiên phim họ hay hơn phim ta; phim Hàn Quốc, sách Trung Quốc dịch vô thiên lủng, từ chuyện dâm, chuyện tục tĩu, vô chính trị nhất... Nếu chúng ta không có một cái nhìn chiến lược đúng, nếu chúng ta không quan tâm thật sự tới điều kiện sống của người dân. Chúng ta không có các chính sách an dân nhất là bà con các dân tộc; nếu chúng ta không mở mang dân trí, không có cách gì để vận động nhân dân đoàn kết, không dùng mặt hàng này, tẩy chay mặt hàng kia của Trung Quốc, cứ hồn nhiên nghiền đồ rẻ, đồ phế thải, đồ độc hại thì rồi tương lai dân tộc ta sẽ tới đâu... Nếu dân ta đoàn kết liền một khối thì việc tìm đối tác tác chiến lược tiềm ẩn ở đâu xa; Trung Quốc cần gì phải mang quân đội sang; không mang quân sang mà chiếm được đất, được thành ( thành phố ), khống chế được tài sản, lung lạc được đời sống tinh thần, khống chế được bộ máy quan chức thì là thượng sách rồi còn gì... Nếu như tìm theo lối giáo điều, sách vở: Kẻ thù của chúng ta là nước A,B,C nào đó như trong các văn kiện hay nhắc, thế lực thù địch về tư tưởng hay chính trị thậm chí nói toẹt ra Mỹ và Trung Quốc là kẻ thù chiến lược của ta, điều đó không sai nhưng không đủ, chưa chuẩn xác... Nếu vấn đề dân tộc ta không giải quyết tốt, vấn đề ruộng đất của nông dân chúng ta không giải quyết tốt; để sự suy sụp về đạo đức, văn hóa xã hội lan tràn, đó vừa là lực cản của chúng ta, đó là kẻ thù của chúng ta chứ còn đâu nữa! Việc gì Trung Quốc đem quân đánh ta, Trung Quốc bây giờ chắc không ngu vậy đâu… Còn các bài tập do Bộ Tổng tham mưu soạn: Trung Quốc hay dùng sơn cước đột nhập, gài mìn kiểu này kiểu kia cho nên ta phải đề phòng để khỏi bị đánh bất ngờ; Đó chỉ là những bài học mang tính chất kỹ thuật... Hiện nay đất nước, lãnh đạo, nhân dân đang bị chia rẽ, đang bị phân tâm một cách sâu sắc và nguy hiểm; đó chính là nguyên nhân đẩy chúng ta vào vòng nô lệ của kẻ khác: nô lệ về kinh tế, nô lệ về chính trị, nô lệ về văn hóa và cuối cùng thì... Tôi cho rằng: Kẻ thù của chúng ta, đối tác tác chiến chiến lược của chúng ta phải tìm ngay trong chúng ta; có quá nhiều nguyên nhân dẫn tới tình cảnh này… Điều này tôi nói thế là anh hiểu... Phạm Viết Đào. (thực hiện 2012) |
You are subscribed to email updates from NvPhamvietdao5.blogspot.com: Thế sự-Văn chương. To stop receiving these emails, you may unsubscribe now. | Email delivery powered by Google |
Google, 1600 Amphitheatre Parkway, Mountain View, CA 94043, United States |
0 nhận xét:
Đăng nhận xét